Giá Cá Trê Vàng Giống / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Psc.edu.vn

Giá Cá Trê Giống. Trang Trại Bán Cá Trê Giống Miền Bắc Và Miền Nam

Trên thị trường hiện nay có 2 loại cá trê phổ biến là cá trê phi và cá trê vàng lai. Cá trê phi có màu đen, thân dài và trọng lượng nhỏ. Cá trê vàng lai có thân hình màu vàng, dài to trọng lượng lớn. Đặc điểm của giống loài này là có khả năng sinh trưởng ở rất nhiều môi trường khác nhau như ao tù, mương rãnh, nơi có hàm lượng oxy thấp .

Chúng là loại cá ăn tạp, có thể ăn được bất kỳ loại nào gặp trên đường mà chúng cảm thấy sẽ xử lý được. Ngoài tự nhiên, cá trê thường tìm kiếm để ăn. Trong điều kiện nuôi nhốt chúng còn ăn cả cám, tấm, rau… và các phụ phẩm từ trại chăn nuôi, chất thải từ lò mổ, cá tạp tươi…

Chúng rất háu ăn và thời gian tiêu thụ thức ăn cũng rất nhanh. Một ngày bà con nên cho ăn từ 2 -4 lần, mỗi lần nên tập trung ăn ở một địa điểm có định để chúng ăn hàng loạt.

Tùy vào từng khu vực và mức tiêu thụ mà giá cá trê giống các loại có sự chênh lệch khác nhau. Hiện tại, giá cá trê vàng lai giống, loại 150 con / 1kg có giá khoảng 55.000 – 75.000 đồng/kg. Giá cá trê phi giống loại 150 con / kg có giá khoảng 45.000 – 70.000 đồng / kg.

1. Trại Cá Giống 7 Vọng 33

Trại cá giống 7 Vọng 33 cung cấp mua bán quanh năm cá bột, cá giống trên toàn quốc : tai tượng, rô phi, điêu hồng, cá tra, trê, chép, chim, lóc, rô đầu vuông, . . . Các loại cá ương đều đạt tiêu chuẩn và kỹ thuật đảm bảo cá khỏe, chất lượng là lớn nhanh.

Liên hệ:

Địa chỉ : Ngã 3 Tân Hội (bót 33) km 1988+500 QL 1A, khu phố Mỹ Thuận, phường Nhị Mỹ, chúng tôi Lậy, tỉnh Tiền Giang. ĐT : 0733.826 763 – 0982 826 763 (C.Giàu) – 0939 26 36 81 (A.Khương)

2. Trại cá giống Út Điệp

Đến với trại cá giống Út Điệp bà con sẽ được lựa chọn các loại cá giống như Cá Trê Giống, Cá Tra Giống, Cá Rô Giống, đặc biệt là cá trê vàng lai giống đang được rất nhiều hộ chăn nuôi lựa chọn vì cá lớn nhanh, cho trọng lượng lớn. Trang trại có hệ thống phân phối cá giống ra toàn quốc, hình thức vận chuyển đảm bảo an toàn, hiệu quả đến tận cơ sở chăn nuôi của bà con.

Liên hệ:

Địa chỉ: Khu phố Mỹ Thuận, P. Nhị Mỹ, TX Cai Lậy, Tỉnh Tiền Giang Điện thoại: 0918 691 290 Website: http://cagiong.com.vn/

3. Trại cá trê giống Tư Hải

Trại cá giống Tư Hải chuyên cung cấp các loại con cá giống: cá trê, cá lóc, cá lăng, cá diêu hồng, cá rô phi, cá cỏ, cá vượt, cá chép, cá trắm, cá tằm… tất cả đều đảm bảo về chất lượng và cá khỏe mạnh, cho năng suất lớn nhanh khi nuôi đúng kỹ thuật.

Với hơn 16 năm kinh nghiệm ương và nuôi cá giống, Trại cá Tư Hải tự hào đã cung cấp hàng tấn cá giống cũng như cá thương phẩm cho thị trường cả nước. Đặc biệt trại cá còn sẵn sàng tư vấn nhiệt tình kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc cá từ khâu chọn giống đến lồng bè, ao nuôi như thế nào cho hiệu quả.

Liên hệ:

Địa Chỉ : TỈNH LỘ 8, TÂN AN HỘI, CỦ CHI, TP HCM ĐIỆN THOẠI : 0903703460 – 0915430478 Email : [email protected] Website : traicagiongtuhai.com

Các trang trại bán cá trê giống ở miền Bắc 1. Trại cá trê giống Thiên Nhâm (trại cá lớn nhất miền Bắc)

Khu vực miền Bắc có trại cá giống Thiên Nhâm chuyên cung cấp đầy đủ các loại cá giống, cá thịt số lượng và chất lượng cao nhằm phuc vụ nhu cầu chăn nuôi của nhiều hộ gia đình, nhiều trang trị khác nhau.

Bà con đến trực tiếp trang trại sẽ được tư vấn, hướng dẫn chăn nuôi đúng cách, đúng kỹ thuật đảm bảo cá khỏe mạnh, cho năng suất cao.

Địa chỉ: Làng Dục Tú, Xã Quảng Tân, Huyện Quảng Xương, Thanh Hóa Hotline: 0989 832 243 Email: [email protected] Website: www.cagiongthiennham.com

Cơ sở Mua bán cá giống tại Miền Bắc do anh Nguyễn Xuân Khá làm chủ là cơ sở chuyên cung cấp cá giống chất lượng cao: Rô phi, chép, diêu hồng, trê, lăng chấm, ba ba … và các đối tượng nước lạnh: Cá Hồi, cá Tầm. Đến với cơ sở bà con sẽ được tư vấn kỹ thuật nuôi cá chuyên nghiệp và cung cấp đàn giống chuẩn, chất lượng cao, sạch bệnh, khỏe mạnh cũng như tìm cơ sở đầu ra cho cá thương phẩm.

Liên hệ số điện thoại: 0975570754 – gặp anh Nguyễn Xuân Khá. Fanpage: https://www.facebook.com/cagiongxuankha/

Kỹ Thuật Sản Xuất Giống Và Nuôi Cá Trê Vàng Lai Thương Phẩm

Cá trê vàng lai là kết quả của lai giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo giữa cá trê phí (Clarias gariepinus) và cá trê vàng (Clarias macrocephalus).

Đầu cá nhỏ, tỷ lệ đầu/chiều dài thân gần tương tự như cá trê vàng khi cá còn nhỏ, kích thước từ chúng tôi Khi cá đã lớn, trọng lượng đạt trên 500g/con thì có thể rõ ràng phân biệt với trê vàng do thân cá mập, ngắn.

Cá trê vàng lai rất mau lớn, trong điều kiện nuôi với mật độ thích hợp thức ăn đầy đủ, sau 3-4 tháng nuối cá sẽ đạt họng lượng trung bình từ 150- 200g/con.

Cá sống đưọc trong môi trường nưóc hơi phèn trong điều kiện nước hơi lợ (độ mặn <5%0 ). Cá phát triển tốt trong môi trường nưóc có độ pH trong khoảng từ 5,5-8.0.

Do cá có cơ quan hô hấp phụ nên cá trê vàng lai sống được trong ao, đìa nước tù, chịu đựng được cả những khi hàm lượng ô xy trong nưóc xuống thấp (l-2mg/l).

Cá bột mới nở từ trứng do có túi noãn hoàng nên không ăn thức ăn bên ngoài. Sau khi nở được 48 giờ cá mới tiêu thụ hết noãn hoàng.

Cá bột từ ngày thứ 3 trở đi bắt đầu ăn được bo bo hay còn gọi là trứng nước (moina), nếu được thả nuôi trong ao chúng cũng ăn đưọc các loại xác nhỏ sống trong nước. Sau vài ngày chúng đã ăn được trùng chỉ. Thông thường, nếu ương cá bột trong bể xi măng hoặc bể bạt thì trùng chỉ sẽ là thức ăn chủ yếu trong quá trình ương cho đến khi cá đạt cỡ 4-6cm. Từ cỡ này trở đi cá có thể ăn được ruốc, tép, côn trùng, các phụ phế phẩm như đầu vỏ tôm, ruột sò, điệp và các thức ăn tình khác như cám, bắp, bột cá…

Cá trê vàng lai nuôi thành cá thịt trong ao cũng ít khi bị bệnh. Tuy nhiên, cũng giống như cá trê vàng, chúng thường chịu rúc, quậy thành hang, dễ làm hỏng bờ ao. Chúng cũng hay phóng, nhảy khi mực nước trong ao nuôi cao gần xấp xỉ mặt bờ nhất là trong những ngày nước lớn, trời mưa.

Cá trê vàng lai hoạt động, bơi lội, ăn mạnh vào buổi chiều tối hoặc ban đêm, lúc trời mờ sáng, vì vậy việc kéo lưới thu hoạch cá (cá giống hoặc cá thịt) nếu thực hiện vào những thời gian kể trên sẽ đạt hiệu quả cao.

Mùa vụ thả nuôi cá giống thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 âm lịch hàng năm. Tuy nhiên để có thế bán cá thịt với giá cao thì nên thả cả giống ngay từ đầu vụ nuôi (tháng 3-4 âm lịch) để đến tháng 6-7 âm lịch khi lượng cá trê vàng trong tự nhiên giảm sút (do cá vô đồng để đẻ, khó đánh bắt) thì đã có thể thu hoạch được cá nuôi. Ở các tháng khác trong năm giá cá trê vàng lai không cao do “đụng” cá trê vàng trong tự nhiên.

CHƯƠNG II. KỸ THUẬT SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ TRÊ VÀNG LAI

Mùa vụ sinh sản nhân tạo cá trê vàng lai bắt đầu từ tháng 2 âm lịch, khi cá trê vàng (Clarias macrocephalus) bắt đầu mang trứng và kéo dài đến hết tháng 9 âm lịch.

I. TUYỂN CHỌN VÀ NUÔI VỖ CÁ BỐ MẸ :

Cá trê vàng (cái) có thể chọn mua từ cá được đánh bắt trong tự nhiên hoặc cá được nuôi trong ao. Cá phải đủ 8-12 tháng tuổi, có trọng lượng trung bình 150-200g. Chọn cá khỏe mạnh, không bị dị tật, da trơn nhẵn, đem về thả nuôi trong các ao có diện tích nhỏ, từ 100-200m 2, mật độ thả nuôi l-l,5kg/m 2. Cho cá ăn cám hỗn hợp (cám heo) nấu chín có thể bổ sung premmix vitamin 1-2% và cho ăn thêm các phụ phế phẩm : Đầu tôm, ruột sò, điệp, ruột gà, vịt… theo tỷ lệ 1/1. Sau thời gian nuôi vỗ khoảng 3-4 tháng (bắt đầu từ tháng 11 âm lịch) cá sẽ thành thục và sẵn sàng đưọc dùng để cho đẻ, lúc này bụng cá cái hơi lớn, lỗ sinh dục có màu phợt hồng.

Cá đực trê phí (đực) là cá được nuôi từ cá giống sinh sản nhân tạo tại Việt Nam, chọn cá đã được 7 tháng tuổi, trọng lượng trung bình từ 0,5-0,7kg/con nuôi vỗ trong ao riêng, mật độ 1,5-2kg/m 2, cho ăn thức ăn tưới như tôm, da ruột mực, ruột gà, vịt, hoặc cho ăn cám nấu trộn với cá phân (đã xay).

II. CÁC KÍCH DỤC TỐ (HORMONES) DÙNG TRONG SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ TRÊ VÀNG LAI VÀ LIỀU LƯỢNG DÙNG :

Hai loại kích dụng tố thường được dùng nhiều trong sinh sản nhân tạo cá trê vàng lai ở Việt Nam là não (cá chép, mè, trê) dạng tươi ngâm trong acetone hoặc não khô (hungari, Czechoslovakia) và HCG (Human chori-onic gonadotrophin).

1. Não cá : Lượng dùng 10-12mg/kg cá cái, liều tiêm (chích) cho cá đực bằng 1/2-1/3 liều cá cái.

2. HCG : Dùng 5000-8000 Ul/kg cá cái, liều dùng cho cá đực từ 2000- 3000UI/kg cá đực.

3. Các kích dục tố : Não cá đưọc nghiền mịn hoặc HCG được hòa tàn trong nưóc muối sinh lý 9%0 hoặc nước cất

Liều lượng tiêm cho cá thường thay đổi tùy theo mùa vụ, đầu vụ hoặc cuối vụ liều lượng thường hơi cao hơn so với giữa vụ để cá đẻ.

Cũng có thể dùng phối hợp cả hai loại não và HCG. Để việc sinh sản nhân tạo đạt hiệu quả cao, cá dụng trứng tốt, các kích dục tố thường được tiêm làm 2 liều.

– Liều sơ bộ : Tiềm 1/3 tổng liều kích dục tố dùng.

– Liều quyết định : Tiềm 2/3 tổng liều, thời gian tiêm liều quyết định từ 5- 6 giờ sau khi tiêm liều sơ bộ. Cá cái sẽ rụng trứng khoảng 8-9 giờ sau khi tiêm liều quyết định.

Hiện nay trên thị trường đã xuất hiện một loại kích dục tố tổng họp ừên gọi là LHRH-a hoặc LRH của Trung Quốc hoặc Thái Lan dùng chung với một loại hóa chất có tên Domperidone (DOM) hoặc Motilium dạng bột hoặc dạng viên. Các thuộc này được sử dụng rất phổ biến trong sinh sản nhân tạo cá Trám, Mè, Trôi, He… Riêng đối với cá trê vàng lai thuốc chưa được sử dụng rộng rãi, vì vậy kết quả về liều lượng, hiệu quả sử dụng LRH chưa được công bố.

Theo một số tài liệu của Thái Lan và Trung Quốc thì liều lượng sử dụng của loại kích dục tố này cho cá trê vàng lai và trê phi là :

* 30-50ug (microgam) LRH và 3-5mg Domperidone/lkg cá trê vàng lai.

* 5ug LRH và 5mg Domperidone cho 1 kg cá ầrc trê phí.

Thòi gian hiệu ứng của thuốc : 10 giờ sau khi tiêm.

III. CÁCH TIÊM CHO CÁ :

Thuốc được tiêm vào cơ lưng hoặc xoang bụng (qua phần thịt ở gần gốc vì ngực). Sau khi tiêm, cá sẽ được thả vào các bể xi măng có mực nước thấp từ 15-20cm để dễ thao tác, bắt cá ra cho đẻ và để cá không phóng nhảy ra ngoài có thể bị xây xát.

IV. THỤ TINH NHÂN TẠO :

– Cá cái được lau sạch phần bụng bằng khăn khô, mềm và vuốt trứng vào trong các khay hoặc chậu (bằng nhựa hoặc có tráng men).

– Mổ cá đực để lấy 2 buồng sẹ, cho vào một cái chén nhỏ bằng thủy tinh hoặc bằng sứ, dùng kéo mổ các mũi nhọn nhắp sẹ đẻ tinh dịch cá tiết ra, cho thêm một ít nưóc muối sinh lý vào trong chén.

– Đổ dịch sẹ vào trứng, dùng lông gà khuấy đều trong 2-3 phút, sau đó rót thêm nước sạch (nước đã nấu chín, để nguội hoặc nước cất) vào để dễ khuấy. Chắt bỏ nước và rửa khoảng 2 lần cho trứng cá được sạch các chất nhầy và các mảng sẹ bám vào.

– Tỷ lệ cá đực trê phí và cá cái trê vàng dùng trong sinh sản nhân tạo là 1,5-2 kg cá đực/4-5kg cá cái.

– Trứng đã thụ tinh được dùng lông gà rải thật đều và nhanh tay lên các vỉ lưới (đóng bằng khung gỗ, có căng lưới vèo cho thật phẳng) đã được nhận chìm trong các bể ấp diện tích từ l-2m 2, mực nước ở bể sâu khoảng 20-30cm.

– Trứng cá nở sau 22-26 giờ ấp ở nhiệt độ bình thường (28-30°c). Cá bột mới nở sẽ chui qua lỗ lướt rớt xuống đáy bể.

Bể ấp phải được sục khí và cho nước chảy vào, ra liên tục.

Sau 3-4 giờ kể từ khi cá bắt đầu nở phải lấy vỉ lưới ra khỏi bể để tránh trường hợp trứng ung trên vỉ bị phân hủy làm thối nước sẽ dẫn đến trường hợp cá bị ngộp và chết.

CHƯƠNG III . KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI CÁ BỘT LÊN CÁ GIỐNG

Có thể ưong nuôi cá bột trê vàng lai lên cá giống trong bể xi măng, bể bạt hoặc ưong ữong ao đất. Tùy theo điều kiện ưong nuôi và thức ăn cho cá và cách chăm sóc cũng có phần khác nhau.

I. TRONG BỂ XI MĂNG :

1. Chuẩn bị bể nuôi :

Nếu là bể xi măng mới xây thì phải ngâm nước khoảng 10-12 ngày, trong suốt thòi gian ngâm thường xuyên thay nước trong bể, muốn bể có thể sử dụng được nhanh thì nên dùng loại chuối trái gần hườm chín chà khắp thành và đáy bể rồi lấy nước vào ngâm tiếp. Sau 3-4 ngày thì bể đã có thể sử dụng được. Tốt nhất là dùng loại giấy đo pH để đo nước trong bể trước khi muốn thả cá, nếu thấy độ pH khoảng 7-8 là đưọc.

Nếu là bể cũ đã sử dụng rồi thì phải chà rửa sạch, dùng nưóc vôi trong hoặc dùng cholorine pha với nồng độ 10-20ppm (10-12mg/l) tạt đều lên thành bể rồi phơi bể một nắng. Trước khi lấy nước vào bể bơm nước sạch xả lai, sau đó mới lấy nước vào bể.

– Dùng nước máy : Lấy nước vào bể ừước 1 ngày

– Dùng nước giếng : Bơm nước vào bể trưóc 2 ngày rồi mới thả cá

Mực nước lấy vào bể nên duy trì trong khoảng 30-40cm là tốt nhất.

2. Mật độ ương :

Mật độ ương nuôi thích họp khoảng từ 2000-2500 con cá bột/m 3 Trước khi thả cá cần phải ngâm bọc đựng cá bột vào bể nước định thả cá khoảng 5 phút đến khi nhiệt độ nước trong bọc cá và nước ở trong bể gần bằng nhau thì mới thả cá ra để tránh trường hợp cá bị sốc do chênh lệch nhiệt độ. Nên thả cá tại một chỗ trong bể, những con cá khỏe sẽ bơi men theo thành bể và trụ lại ở các góc bể, những con cá yếu hoặc mệt quá do quá trình vận chuyển sẽ nằm tại điểm thả cá, sẽ được hút ra bằng ông xi phông.

3. Thức ăn và cách cho ăn :

Cá bột mới thả nuôi được cho ăn bo bo (moina) trong 2-3 ngày để cá dễ bắt mồi và đều cỡ. Lượng cho ăn khoảng 1-1,15 lon bo bo/20.000 cá bột/ngày. Sau đó cho ăn trùng chỉ 2 lon/20.000 cá bột/ngày. Lượng trùng cho ăn sẽ điều chỉnh tăng dần lên trong quá trình nuôi. Thường tốn khoảng 100-110 lon/10.000 cá giống đạt lồng 6 (cỡ 4-5cm).

Trùng mua về đem rửa kỹ và khuấy đều lên trong một chậu nước, sau đó để trùng tụ lại thành từng đám, gỡ bỏ rác rưởi và các chất bẩn bám vào trùng.

Rải trùng đều quanh bể cho cá ăn. Thường xuyên theo dõi cho ăn vừa đủ, không để trùng dư trong bể để kích thước cá ăn được nhiều, mau lớn, đồng thời không làm ảnh hưởng đến chất lượng nưóc trong bể nuôi.

4. Chăm sóc:

Thường xuyên dùng ống xi phông hút cặn và phân cá lắng dưới đáy bể. Cách ngày thay khoảng 20-30% lượng nước trong bể và cho thêm nước mới vào bể để giữ cho môi trường nước trong bể luôn được sạch, kích thích cá hoạt đông bod lội mạnh, ăn nhiều.

Theo dõi hoạt động của cá nhằm sớm phát hiện bệnh cá và tìm cách chữa trị. Nên che 4 góc bể hoặc phủ lá dừa trên mặt nước để cá có chỗ trú ẩn. Sau 16- 18 ngày nuôi, nếu không bị bệnh, điều kiện môi trường thuận lợi thức ăn đầy đủ cá đạt cỡ 4-6cm (lồng 7) tỷ lệ sống của cá thường đạt từ 60-85%.

II. ƯƠNG TRONG BỂ BẠT:

1. Chuẩn bị bể nuôi:

Bể bạt không đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu nhiều như xây bể xi măng. Chỉ cần đóng khung gỗ với các cọc chắc chắn trên nền đất đã được dặm cho phằng, sau đó đổ cát, san đều cho bằng trước khi trải bạt để không làm các tấm bạt bị cấn, dễ rách, hư hỏng. Nên chọn loại bạt dày, không bị lỗ mọt, đặt làm hoặc mua sẵn cho vừa với kích cỡ của khung (thường các cơ bạt là 4x6m, 5x5m, 3x4m…) trải bạt vào khung, dùng khay hoặc nẹp bằng kẽm nẹp trên thành cho chắc rồi mới bơm nước vào.

Nước lấy vào bể bạt tương tự như ở bể xi măng. Sau mỗi đợt thu cá giống bán, gỡ bạt ra giặt sạch bằng bàn chải rồi phoi nắng hoặc tạt rửa bằng nước chlorine 10-20ppm trước khi phơi nắng. Khi muốn thả đợt cá mới phải kiểm tra bạt, vá lại những chỗ bị rách, thủng bằng keo dán nhựa, dán bạt) rồi mới lấy nước vào.

2. Mật độ thả : Tương tự như ở bể xi măng, từ 2000-2500 con/m 2.

3. Thức ăn và cách cho ăn : Tương tự như nuôi trong bể xi măng.

4. Chăm sóc : Giống như ở bể xi măng

III. ƯƠNG TRONG AO ĐẤT

1. Chuẩn bị ao :

Các ao ương có diện tích từ 500-1000m 2 rất tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch. Mực nưóc thích hợp trong ao từ l-l,2m. Đáy ao phải làm dốc về phía bọng thoát nước. Để dễ thu hoạch cá giống khi tháo cạn nước ao nên đào một cái rãnh rộng l-l,5m; sâu 0,2-0,3m ngang qua ao, dốc từ 2 phía cạnh ao xuống một hố ữòn có đường kính 2-3m, sâu khoảng 0,5m ừước họng thoát nưóc.

* Nếu ao mới đào :

Bón vối với lượng 100-150kg/1000m 2, rãi đều khắp đáy ao, lấy nước vào ao khoảng 0,5m. gây màu nước xanh bằng cách bón phân chuồng đã ủ hoai 25- 35kg/1000m 2. Lấy thêm nước vào ao đủ mực nước cần thiết 1-1,2m. Sau 3-4 ngày có thể thả bo bo giống vào (khoảng 10-15 con/1000m 2 ao). 2 ngày sau khi thả bo bo sẽ phát triển nhiều hơn, và có thể thả cá bột vào nuôi trong ao.

* Nếu là ao cũ :

Nạo vét bùn đáy ao, đắp bờ, xảm lại các lỗ mội, đào rãnh và hố thu cá giống, phơi đáy ao. Bón vôi với lượng 30-70kg/1000m 2. Lấy nước vào ao 0,5m. Sau đó bón phân chuồng (đã ủ hoai) 15-25kg/1000m 2. Lấy thêm nước vào ao đến khi đạt mực nước sâu khoảng 1-1,2m. Đóng họng lại không cho nưóc ra vào nữa. Sau 3-4 ngày thả bo bo vào ao, 2 ngày sau mới thả cá bột xuống ao.

2. Mật độ thả :

250-400con/m 2 mặt nưóc ao. Khi thả cá bột nên nhớ ngâm bọc cá vào nước ao khoảng 5 phút để nhiệt độ nước ừong bọc gần bằng nhiệt độ nước ao thì mới thả cá ra.

3. Thức ăn và cách cho ăn :

Sau khi thả cá được 3-4 ngày mới cho ăn thêm trùng chỉ khoảng 10-12 lon/100.000 bột/ngày. Lượng trùng sẽ được điều chỉnh tăng dần lên trong quá trình nuôi. Trong những mùa khan hiếm trùng (nắng nhiều, nưóc sông bị lợ) sau khi cá đã đánh móng được (khoảng 7-8 ngày kể từ lúc thả) có thể giảm bớt lượng trùng, cho cá ăn thêm huyết heo (bò) luộc chín, bón nhuyễn, cá hấp (hay luộc chín) bỏ xương, bóp nhuyễn, cám nấu chín… cho thức ăn ở 4 góc ao để tiện việc kiểm soát xem cá có ăn hết thức ăn không và điều chỉnh lượng thức ăn vừa đủ cho cá ăn.

Cá ương trong ao đất rất mau lớn nếu so với ương ở bể xi măng. Da cá mỏng, dễ bị xây xát nên khi kéo lưới hoặc lọc cá để bán nên chú ý cấn thận và nên tắm cá ừong dung dịch muối ăn 0,5-1% trong một phút để ngừa bệnh cho cá. Nên rộng cá trên bể xi măng và luyện cá trước khi bán, nhất là trong những trường hợp vận chuyển cá đường xa, thời gian lâu.

Cá giống trê vàng lai ương trong ao đất rất dễ bị sình bụng, nên định kỳ ngừa cho cá bằng cách trộn Furazone (hoặc Furazolidon) với lượng 8-10g/kg thức ăn.

Ương cá trong ao đất không đòi hỏi tốn nhiều công chăm sóc như ương trong bể xi măng, bể bạt. Tuy nhiên, vẫn phải thường xuyên theo dõi các hoạt động bơi lội, bắt mồi của cá để kịp thời phát hiện bệnh cá. Ương nuôi trong ao đất cho phép sử dụng thêm các nguồn thức ăn khác ngoài trùng chỉ, hạ được giá thanh con giống do chi phí đầu tư cho ăn không nhiều như ương trong bể. Cá nuôi trong ao rất mau lớn, chỉ sau 13-14 ngày cá đã đạt 4-6cm. Tuy nhiên, tỷ lệ sống của cá thấp hơn so với ương trong bể (25-40%) do dịch hại trong ao (ếch, nòng nọc, rắn, cá dữ…) nhiều. Nuôi trong ao khó thu hoạch được triệt để như nuôi ở bể, khi cá bị bệnh thường rất khó chữa trị và lượng thuốc dùng rất tốn kém. Vì vậy, việc kiểm soát chất lượng nước trong các ao ương từ cá bột lên cá giống kết hợp với việc định kỳ cho cá ăn thức ăn có ngừa thuốc là rất quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến sự thành công trong ương nuôi.

PHẦN II. KỸ THUẬT NUÔI CÁ THƯƠNG PHẨM (CÁ THỊT) TRÊ VÀNG LAI CHƯƠNG I . KỸ THUẬT NUÔI CÁ GIỐNG LÊN CÁ THỊT

Cá trê vàng lai là một đối tượng nuôi tương đối mới ở nước ta, có giá trị kinh tế cao, mau lớn nên thời gian quay vòng vốn nhanh. Cá rất dễ nuôi, ăn tạp nên có thể tận dụng được các phụ phế phẩm dùng làm thức ăn, thích họp cả trong điều kiện ao nuôi cá có diện tích vừa và nhỏ. Tuy nhiên muốn nuôi cá đạt năng suất cao, cá lớn nhanh, người nuôi cá cần chú ý đến các khâu chọn giống cá, chuẩn bị ao nuôi, thức ăn cho cá và cách chăm sóc.

I. CHUẨN BỊ AO.

Ao nuôi cá trê vàng lai có diện tích từ 1000-3000m 2 sẽ thuận tiện cho việc cho ăn, chăm sóc và thu hoạch hơn là những ao nuôi diện tích lớn.

1. Nếu là ao cũ:

Vét bùn đáy ao, xảm các lỗ mội, đắp bờ, phơi đáy ao 2-3 ngày, bón vôi bột từ 30-50kg/1000m 2 để diệt tạp và điều chinh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với lượng 100-150kg phân/1000m 2. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao. Sau 5-7 ngày có thể thả cá vào nuôi được. Mực nưóc lúc ban đầu vào ao khoảng 1 m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu l,2-l,5m.

2. Nếu là ao mới đào :

Bón vôi với lượng từ 70-100 kg/1000m 2 để giữ cho độ pH của nưóc ao từ 6-7,6 là tốt nhất.

II. CHỌN CÁ GIỐNG :

Chọn cỡ cá đồng đều, khỏe mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, boi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh. Các kích cơ cá giống thả ao thường được phân ra như sau :

Nếu ao không bị rò rỉ, có thể rút cạn nước và diệt tạp triệt để thì nên thả nuôi cá cỡ nhỏ 3-4cm hoặc 4-5cm để giảm đưọc chi phí về con giống. Nếu ao có lỗ mội bị rò rỉ, không diệt tạp được triệt để thì phải thả cá cơ 5-6cm hoặc cá lứa (cá 10-12cm), nhằm giảm dư ọc tỷ lệ hao hụt của cá nuôi.

III. MẬT ĐỘ THẢ

Thay đổi tùy theo cỡ cá và hình thức nuôi: nuôi đơn, nuôi ghép, thả cá nuôi 1 lần hay nuôi đánh tỉa thả bù.

1. Nuôi đơn

Chỉ nuôi 1 loại cá trê vàng lai, mật độ thả nuôi tương ưng với cỡ cá như sau :

2. Nuôi ghép :

Mục đích là tận dụng hết thức ăn trong ao nuôi, có thể thả ghép cá trê vàng lai chung với các loại cá sau : Rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật độ thả cho từng loại cá như sau :

Trong trường hợp này thời gian thu hoạch sẽ thay đổi theo loại cá, tốc độ lớn, kích cỡ thương phẩm được thị trường ưa chuộng. Như vậy sau thời gian 3 tháng sẽ thu hoạch và thả bù cá trê vàng lai với kích cỡ lớn hơn, thường là 10- 12cm hoặc 12-15cm, thả bù cá rô phi cỡ 8-10cm sau khi kéo lưới thu hoạch lần 1

3. Nuôi cá đánh tảa thả bù :

Thường phải chuẩn bị thêm một ao nhỏ để ương cá lứa thả bù. Diện tích ao khoảng 100-300m 2 ao phải được cải tạo tốt, có thể thả cá cỡ 3000- 4000con/kg (cá 2-3cm) hoặc cơ 3-4cm. Mật độ thả các loại này như sau :

Sau 2 tuần nuôi, cá đạt kích cỡ 12-15cm, cá được thả bù vào các ao nuôi có diện tích lớn nhưng khó thu cạn hoặc vào những ao nuôi ghép nhiều loại cá có thời gian thu hoạch khác nhau.

Việc thả cá lứa cỡ lớn sẽ giúp giảm bớt hao hụt đầu con ảnh hưởng đến sản lượng cá nuôi.

4. Thức ăn nuôi cá và chăm sóc :

Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn, có tập tính ăn gần tương tự như cá ừê vàng. Thức ăn dùng nuôi cá thường gồm các loại phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh như đầu vỏ tôm, da ruột mực, đầu lòng cá, ruột sò điệp…, cám thức ăn gia súc, cám gạo, bắp xay, con ruốc, cá phân (xay).

Ngoài ra, để giúp cá tăng trưởng nhanh, ít bệnh, trong quá trình nuôi cần định kỳ bổ sung Premix vitamin (loại dùng cho heo thịt) 1 tuần 1 lần với lượng 1-2% của tổng lượng thức ăn cho ăn trong ngày.

Trong hai tuần đầu khi mới thả cá còn nhỏ nên băm thức ăn : Đầu lòng cá, ruột gà, vịt, ruột so điệp… để cá sử dụng được hết thức ăn.

Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15-20 phút trước khi nâu với nước sôi. Sau khi nấu chín trộn với cám khô theo tỷ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân.

Nếu cho ăn thức ăn tươi (đầu tôm, lòng ruột cá…) lượng thức ăn cho cá ăn trong ngày bằng 10-15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp… lượng thức ăn cho cá ăn trong 1 ngày bằng 5-7% trọng lượng cá dự đoán.

Trường họp nuôi ghép chung với các loại cá khác (chép, trám, trôi…) thì nên dùng kết họp thức ăn tinh với thức ăn tươi theo tỷ lệ 1/1. Nếu cá chép nuôi trong ao đã lớn thì có thể cho ăn bắt hột, (xay thô) ngâm nước mà không cần nấu.

Nên cho cá ăn ở những vị trí cố định trong ao, thường xuyên theo dõi và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù họp. Tránh trường họp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát ừiển.

Trong thời gian nuôi cần theo dõi hoạt động của cá, màu nước ữong ao. Sau một tháng đầu, cá tương đối lớn, có thể định kỳ lấy nước vào trong ao, cứ 5- 7 ngày một lần thay khoảng 30% nước trong ao. Sử dụng nhiều thức ăn tưoi thì cần chú ý thay nước thường xuyên hơn.

Nếu khẩu phần thức ăn hàng ngày của cá được đầy đủ các loại thức ăn như đã kể ữên : Cám, bắp, premix vitamin, ruột sò, đầu tôm… cá nuôi sẽ mau lớn và khi đến cơ thu hoạch (150g-200g/con) da thịt cá sẽ vàng gần tương tự như cá trê vàng. Trong trường họp ao bị phèn hoặc nước ao có độ pH thấp, da cá có màu xám, ít vàng nên trong mùa mưa phải thường xuyên rắc vôi quanh bờ ao. Cá nuôi ở vùng đất đỏ hoặc ở môi trường ao tù, nước đục da cũng sẽ có màu vàng đẹp hơn cá nuôi ở những ao nước sạch (nưóc ra vô hàng ngày). Vì vậy, trước khi thu hoạch khoảng 10-15 ngày nên đóng bọng, ngừng không cho nước ra vào.

5. Thu hoạch :

Sau 2 tháng rưỡi đến 3 tháng nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm (150- 250g/con). Lúc này hình dạng bên ngoài của cá trê vàng lai (chỉ khác nhau ở chỗ u lồi xương chẩm). Thu hoạch đợt 1 xong, sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10-15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt 2. Thường ở đợt này lượng cá thu hoạch được sẽ nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ hơn so với đợt 1. Nếu trong ao vẫn còn một số lượng cá chưa đạt qui cỡ thì sẽ nuôi vỗ tiếp tục 2 tuần nữa và thu hoạch toàn bộ.

Ở huyện Bình Chánh (ngoài thành chúng tôi và đặc biệt là ở xã Bình Trị Đông do điều kiện đặc biệt của các ao nuôi ở đây là ao tù và rất sâu (5-8m nước), phần lớn đều nuôi theo phương pháp đánh tỉa thả bù. Sau khi đã thu hoạch đợt 1, 20 ngày sau sẽ thu tiếp đợt 2… thu như vậy khoảng 4 đợt, lượng cá trong ao chỉ còn sót lại một ít, sẽ thả cá lứa 12-15cm xuống bổ sung, số lượng cá thả được tính theo diện tích mặt nước ao, thường khoảng 20-30 con/m 2 hoặc nông dân còn tính theo m 3 nước, thường là 6-7con/m 3. Tại các ao nuôi ở vùng nay, nếu cá được cho ăn đầy đủ, ao nuôi chuẩn bị đúng theo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng nước trong ao tốt, cá nuôi không bị bệnh thì sau 3 tháng nuôi sẽ đạt năng suất từ 3-5 tấn/1000m 2 (30-50 tấn/ha). Tỷ lệ sống của cá thường từ 40- 60%.

Nên thả cá giống ngay từ đầu vụ nuôi (tháng 3-4 âm lịch) để đến thời điểm thu hoạch và tháng 6,7,8 âm lịch, cá thịt bán được giá cao, chi phí đầu tư con giống rẻ, dễ nuôi hơn lúc cuối vụ (do thời tiết cuối vụ thường lạnh cá dễ bệnh).

Sau khi trừ các chi phí cải tạo ao, con giống, thức ăn, công chăm sóc, bảo vệ… người nuôi thường có thể được lãi 40-45% so với tiền vốn bỏ ra ban đầu. Thu hoạch cá vào mùa đụng cá đồng (thả cá giữa và cuối vụ) thì tiền lãi thu được sẽ thấp hơn do giá con giống cao, giá cá thịt rẻ, thường chỉ lãi khoảng 20- 25% với tiền vốn ban đầu.

CHƯƠNG II. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CÁ HƯƠNG, CÁ GIỐNG TRÊ VÀNG LAI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH

I. BỆNH TRẮNG MÌNH :

Thân cá có nhiều mảng trắng, cá bị tuột nhớt, râu cong quặp cá treo thân thẳng đứng với mặt nước hoặc bơi lội lờ đờ, chết rất nhanh với số lượng lớn. Bệnh có thể xảy ra ở cá bột cỡ 5-7 ngày tuổi, cơ cá giống lớn 6-8cm vẫn có thể bị nhiễm bệnh này.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Do vi khuẩn Flexibater columnaris, bệnh thường xảy ra ở các bể ương với mật độ dày, chất lượng nước xấu, nước bị thối bấn do thay nước không thường xuyên. Vi khuẩn xâm nhập các cơ quan nội tạng của cá hủy hoại mang và các tế bào ở da cá làm cá khó thở, gây chết. Ở bệnh này cùng với sự xâm nhập của vi khuẩn, nấm và nguyên sinh động vật gây bệnh cũng đồng thời xâp nhập làm cá chết rất nhanh.

2. Cách xử lý :

Trong bể xi măng hoặc bể bạt dùng oxytétracycline với liều lượng 10- 20ppm (10-20 oxutetracycline/lm 3 nước) kết họp với Fomalin 25ppm (25ml Formalin/lm 3 nước). Hoặc dùng oxytétracycline 10-20ppm kết họp với muối ăn (lkg muối ăn/lm 3 nước), trị trong 3 ngày liên tục (không thay nước hoặc chỉ thay chút ít nếu thấy nước thổi bẩn, châm thuốc vào cho đủ nồng độ.

II. BỆNH SƯNG MÌNH :

Phần bụng cá bị sừng phình, trong có chứa nước màu vàng, 2 bên mang và gốc vi ngực sưng, nội tạng bị xuất huyết. Thường gặp ở cỡ cá hương (sau khi biết đánh móng) và cá giống, gây chết hàng loạt.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Bệnh được chuẩn đoán là do các loại vi khuẩn sau gây ra : Aeromonas hydrophila, Pseudomonas sp, Vibrio sp, các vị khuẩn này thường sẵn có trong môi trường nước, khi nước bị thối bấn do thức ăn dư thừa phần huy, các chất do cá bài tiết ra môi trường tạo điều kiện cho các vị khuẩn phát triển mạnh, nhất là

trong trường họp cá ương với mật độ dày, nước dơ làm cá bị yếu, mệt, rất dễ cảm nhiêm bệnh này.

2. Cách xử lý :

Dùng oxytétracycline với liều lượng 10-20 ppm (10-20g oxytétracycline/lm nước) đạt hiệu quả rất cao nếu sớm phát hiện bệnh. Trước khi cho thuốc cần phải vợt hết xác cá chết và dùng ống rút hết trùng cặn hoặc thức ăn dư thừa, không dùng ống và vợt đã dùng cho hồ cá bệnh cho các hồ khác để tránh bệnh lây lan.

III. BỆNH TRƯỚNG BỤNG.

Bụng cá phình to như bong bóng, trong chứa nước, cá bơi lội chậm chạp, biếng ăn.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Do thận cá bị rối loạn trong việc điều hòa cân bằng chất dịch trong cơ thể khiến cá mất khả năng bài tiết chất lỏng dư thừa trong cơ thể chúng. Bệnh xảy ra chủ yếu do môi trường nước bị nhiễm bẩn do thức ăn dư thừa, chế độ thay nước không phù họp, cá ương với mật độ dày, NH 3 sinh ra với một lượng lớn làm tổn thương mang cá và ảnh hưởng đến khả năng lọc nước của thận cá.

2. Cách xử lý :

Nếu không phát hiện bệnh sớm thì bệnh cá rất khó chữa trị tuy nhiên mức độ lây lan không lớn như ở các bệnh kể ừên. Dùng muối ăn 0,3-0,5% (3- 5kg/muối/lm 3 nước) ngâm trong 3 ngày để chữa cho cá bệnh. Mỗi khi thay nước phải bổ sung thêm muối để giữ nông độ muối được ổn định. Thời gian trị bệnh có thể kéo dài tới 7-8 ngày nếu cá chưa khỏi.

IV. BỆNH THỐI RÂU, THỐI VI :

Cá treo râu thân thẳng với mặt nước, 2 bên mang tái nhợt, miệng bị lở loét, râu và các tia vi bị thối, da cá bị tổn thương, xuất hiện nhiều đốm xuất huyết nhỏ li ti trên da; cá cũng có thể quay mòng mòng ừong nưóc, nếu quan sát thật kỹ, có thể thấy toàn thân cá bị bao phủ bởi một lớp chất nhầy nhợt mỏng màu trắng đục, cá bị chết rất nhanh với số lượng ngày càng nhiều và có thể chết hết trong vòng 3-4 ngày nếu không đưọc chữa trị kịp thời.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Các ký sinh trùng như trùng bánh xe Trichidina, Seyphidia và Epistyỉis được tìm thấy trong các mẫu cá bệnh. Trong đó Trichodina thường làm cá chết rất nhanh. Chúng làm tồn thương da và mang cá, gây xuất huyết ngoài da. Ở cá bệnh nặng, vi và mang cá bị thối, Scyphidia và Epistylis có rất nhiều trong các phiến mang cá bệnh làm mang tiết ra nhiều chất nhầy làm cá khó thở.

2. Cách xử lý :

Khi cá mới chớm bệnh, dùng íomalin với nồng độ 25ppm (25ml chúng tôi 3 nước) trong 2 ngày để chữa bệnh cho cá. Cá bị nhiễm bệnh này thường tỷ lệ sống đạt rất thấp nếu phát hiện không kịp thời.

V. BỆNH TRÙNG QUẢ DƯA :

Trên thân cá có xuất hiện các đốm ừáng hoặc vàng thật nhạt nhỏ li ti như đầu kim, các đốm này phát triển rất nhanh và nhiều trên da và cả trong mang làm cá khó thở, mang tiết ra rất nhiều chất nhày và chết rất nhanh, nhất là những khi trời lạnh, nhiệt độ nước dưới 25-27°c.

1. Nguyên nhân gây bệnh : Do trùng quả dưa ỉchthiophthyrius gây ra.

2. Cách xử lý :

Dùng Malachite green với nồng độ 0,10-0,15ppm (0,10-0,20g/m 3 nước) cho cá hương cỡ l,5-2cm vào nồng độ 0,20-0,3ppm cho cỡ cá giống lớn (3-5cm trở lên). Trị liên tục trong 3 ngày, hạn chế thay nước, nếu có thay nước thì phải bổ sung thêm Malachite green cho đủ nồng độ. Cá sẽ bị tróc các mảng nhớt mang ký sinh ưùng quả dưa và sẽ dần dần bình phục.

VI. BỆNH BỊ BÁM BÔNG GÒN :

Cá bơi lội lờ đờ, chậm chạp, biếng ăn, trên da có bám nhiều sợi tơ rất nhỏ tương tự như sợi bông gòn, xuất huyết ở ngoài da, mang cá tái nhợt.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Bệnh gây ra bởi các sán lá đơn chủ Monogenea có kích thước từ 0,5- lmm, đôi khi có thể quan sát được bằng mắt thường. Chúng dùng móc bám chặt và da cá. Thường thì vi khuẩn sẽ xâm nhập vào các vết thương do sán lá gây ra và làm chết cá.

2. Cách xử lý :

Dùng íormalin với nồng độ 45ppm (45ml formalin/lm 3 nước) trong 2 ngày, nếu chưa hết bệnh sẽ tiếp tục trị thêm trong vài ngày.

VII. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH Ở CÁ GIỐNG TRÊ VÀNG LAI NUÔI TRONG BỂ XI MĂNG HOẬC BỂ BẠT.

– Ương nuôi cá với mật độ thích họp từ 2000-2500 con/m 2.

– Cho cá ăn một lượng thức ăn vừa đủ, không cho dư thức ăn hoặc dùng cho ăn trùng yếu vì trùng chết và thức ăn dư thừa sẽ làm nước thối bấn, ký sinh trùng và vi khuẩn gây bệnh dễ phát ừiển trong môi trường.

– Thay nước mỗi lần không quá Vi – 1/3 lượng nước có trong bể để tránh cho cá bị sốc do môi trường bị thay đổi đột ngột. Nếu dùng nước máy thì nước phải trữ sẵn, đã bay hơi clor. Nếu là nước giếng thì phải bơm phun thành nhiều tia nhỏ (như vòi hoa sen tưới nước) từ trên cao xuống để tránh trường hợp làm cá thiếu oxy.

– Thường xuyên rút cạn, các chất thải ở đáy bể bằng cách xi phông.

– Vợt, ống nước của từng bể phải dùng riêng, tuyệt đối không lấy các dụng cụ ở bể cá bệnh dùng cho cá khỏe để tránh lây lan.

– Sau khi chăm sóc cá bệnh, phải rửa tay và các dụng cụ thật kỹ, tốt nhất là ngâm trong nước cholorne 10-20 ppm trong 30 phút để sát ừùng.

– Không để cho nước ừong bể nuôi quá xanh hoặc quá dơ.

CHƯƠNG III. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CÁ GIỐNG NUÔI LÊN CÁ THỊT VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH

Cá trê vàng lai nuôi từ cá giống lên thành cá thương phẩm (cá thịt) trong những điều kiện ao nuôi có chất lượng nước tốt, con giống khỏe mạnh, theo dõi việc cho ăn thường xuyên, không để thức ăn dư thừa làm nước ao bị thối bẩn sẽ giúp hạn chế được phần nào việc xảy ra bệnh cá trong ao rất khó khăn trị, tốn kém và có thể tổn thất nhiều do cá chết hàng loạt.

Cá giống hoặc cá lứa nuôi lớn thành cá thịt cũng bị một số bệnh do vi khuẩn, ký sinh gây ra như ở cơ cá nhỏ, tuy nhiên phổ biến như ở giai đoạn ương cá bột lên thành cá hương, cá giống. Ngoài ra, cá còn có thể bị một số bệnh do dinh dưỡng, ăn các thức ăn kém phẩm chất gây ra

I. BỆNH THỐI VỊ, XUẤT HUYẾT NỘI TẠNG VÀ HÉT NHỚT NGOÀI RÀ:

Da cá bị tổn thương, xuất huyết, các vi bị thối, da cá có màu sẫm đen hơn lúc bình thường, thân và mang cá tiết ra nhiều nhớt, cá hô hấp khó khăn, quay mòng mòng hoặc boi lội không định được hướng.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Do sán lá đơn chủ, các ký sinh trùng như Costia, Vodinium nhiễm theo từ các bể ương hoặc từ nguồn nước lấy vào ao.

2. Cách xử lý :

Dùng formalin với nồng độ 30-50ppm (30-50g/m 3). Hạ thấp mức nước trong ao tới mức tối thiểu có thể đạt được, tính lượng nước trong ao (m 3) và từ đó suy ra lượng thuốc dùng để trị bệnh cho cá

II. BỆNH SƯNG MÌNH, TRƯỚNG BỤNG

Cá bị xuất huyết trên thân và các tia vị, râu cong quặp, phần bụng bị sưng, nổi hạch ở hai bên gốc vi ngực. Cá bỏ ăn và treo râu trên mặt nước, thân tiết ra nhiều nhớt, chết rất nhanh.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Do các vi khuẩn Aeromonas và Cohumnaris gây ra.

2. Cách xử lý :

Cách 2 ngày thay nước một lần, mỗi lần thay khoảng 30-40% lượng nước trong ao. Cho vôi bột xuống ao với lượng 15-30kg/1000m 2 và muối với lương 120-200kg/1000m 2.

IV. BỆNH VÀNG DA Ở CÁ THỊT :

Da cá chuyển sang màu vàng nhạt và chết.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Do các thức ăn tươi : Lòng ruột cá, da ruột mực, đầu tôm…đã bị thối, hỏng, chứa ít chât dinh dưỡng, các loại cám, bắp tồn trữ lâu ngày bị ẩm và nhiêm nấm mốc cho cá ăn phải sẽ làm cá bị bệnh.

2. Cách xử lý :

Thay ngày 20-30% nưóc ao bằng nước sạch, ngừng cho cá ăn trong vài ngày. Bón vối với lượng 15-30kg/100m 2 nếu cá đến gần cỡ thu hoạch mới bị phát bệnh thì nên thu hoạch và bán sớm trước khi cá bị chết hàng loạt.

V. BỆNH BI ÉN DẠNG ĐẦU VÀ TOÀN THÂN

Đầu cá bị méo mó biến dạng, thân dị hình cong veo, nếu lất ngửa cá lên sẽ thấy phần cổ giữa 2 vi ngực bị xuất huyết (nông dân gọi là bị bứt cổ), rất thường gặp trong các ao nuôi cá thịt không bổ sung vitamin c và premix vitamin vào khẩu phần thức ăn của cá.

1. Nguyên nhân gây bệnh :

Do khẩu phần thức ăn thiếu vitamin c.

2. Cách xử lý :

Bổ sung vào mỗi kg thức ăn lg vitamin A (loại thuốc nguyên liệu, bán theo kg, hiện có sẵn ngoài thị trường thuốc thú y). Cho cá ăn liên tục trong 5-7 ngày. Nên trộn và nhồi thuốc kỹ vào cám đã nấu chín (để nguội) để thuốc ít bị tan vào trong nước.

VI. BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA BỆNH :

Ngừa bệnh hoặc phát hiện bệnh sớm thì việc chữa trị mới có hiệu quả cao và ít tốn kém, có một số biện pháp phòng ngừa bệnh như sau :

1. Ao hồ phải được chuẩn bị tốt, đảm bảo đúng theo yêu cầu kỹ thuật nuôi và phải có điều kiện thay nước thường xuyên khi cần.

2. Cá giống chọn mua về phải khỏe mạnh đều cỡ, nên tám cá trong dung dịch nước muối ăn 0,5-1% Long 2-3 phút tnrớc khi thả cá

3. Không nuôi cá vói mật độ quá dày và không để nước ao bị thối bẩn.

4. Theo dõi việc cho ăn và điều chỉnh lượng thức ăn vừa đủ. Không sử dụng các thức ăn đã bị kém phẩm chất, ôi hỏng hoặc bị nhiễm nấm mốc.

Theo dõi hoạt động bơi lội và tập tính ăn của cá để sớm phát hiện bệnh.

Kỹ sư Bạch Thị Quỳnh Mai

Nhân Giống Và Nuôi Cá Trê

Cá trê vàng là một trong những loài thuỷ sản đặc hữu của vùng đất Cà Mau. Trong vài năm qua, cá trê vàng là loại cá đồng luôn có giá cao và ổn định. Tuy nhiên, nguồn lợi cá trê vàng tự nhiên ngày càng cạn kiệt.

Do đó, nhiều địa phương trong tỉnh đã và đang phát triển mô hình gây nuôi cá trê vàng thương phẩm cho hiệu quả kinh tế rất khả quan, bởi cá trê vàng là đối tượng khá dễ nuôi và chi phí đầu tư thấp.

1. Chuẩn bị ao nuôi

Diện tích ao nuôi cá trê vàng thích hợp từ 500-1.000 m2. Mực nước dao động từ 1,6-1,8 m. Ao nuôi bố trí gần nguồn cung cấp nước, chủ động được khâu cấp, thoát nước. Đáy ao ít bùn, bờ ao vững chắc.

Cải tạo ao nuôi bằng cách tát cạn ao, bón vôi 10 kg/100 m2. Phơi đáy ao từ 3-4 ngày, sau đó cấp nước vào qua lưới lọc. Sử dụng bột đậu nành hay bột cá để bón với liều lượng từ 2-3 kg/100 m2 nhằm gây nuôi thức ăn tự nhiên.

2. Thả giống

Cá giống thả nuôi phải đồng đều, kích cỡ từ 5-10 cm, không xây xát, dị hình. Mật độ thả từ 15-20 con/m2. Nên thả cá vào lúc trời mát. Trước khi thả cá cần tắm cá bằng nước muối với liều lượng từ 3-5 g muối ăn/lít nước.

3. Thức ăn

Sử dụng thức ăn công nghiệp có bổ sung thức ăn tự chế từ phụ phế phẩm nông nghiệp như tấm, cám, phụ phế phẩm của nhà máy chế biến thuỷ sản, phế phẩm từ lò mổ gia súc, các loại tôm tép, cua, ốc, cá tạp…

Tuỳ theo các giai đoạn phát triển, lượng thức ăn hằng ngày cho cá trê vàng dao động từ 5-7% trọng lượng cá trong ao. Hàm lượng chất đạm cần thiết để duy trì cá phát triển tốt ở tháng thứ 1 là từ 28-30%, tháng thứ 2 là 24-26% và tháng thứ 3 là 18-20%. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần. Nên dùng sàng cho ăn và lập nhiều điểm cho ăn ở trong ao để cá phát triển đều hơn.

4. Chăm sóc và quản lý ao nuôi

Cần duy trì mực nước trong ao nuôi ổn định trong suốt vụ nuôi. Định kỳ thay nước từ 10-15 ngày/lần, mỗi lần thay 1/3 nước trong ao. Thường xuyên kiểm tra bờ, bọng, rào chắn cẩn thận đề phòng sự thất thoát cá nuôi, nhất là vào mùa mưa lũ.

Theo dõi hoạt động của cá hằng ngày. Điều chỉnh lượng thức ăn sao cho vừa đủ, không thừa mà cũng không thiếu. Định kỳ 2 lần/tuần trộn thêm Vitamine C (từ 60-100 mg/kg thức ăn) và chất khoáng vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cũng như giúp cá tăng trưởng tốt hơn.

5. Phòng trị bệnh cho cá trê vàng

– Bệnh nhầy da: Bệnh này do ký sinh trùng gây ra. Khi nhiễm bệnh cá bơi thẳng đứng trên mặt nước, vây bị ăn mòn, râu quăn, da có đám chất nhầy. Điều trị bệnh nhầy da bằng sunphat đồng 0,3 g/m3 nước, tắm trong 2-3 ngày liên tục hoặc dùng Fomalin 25 g/m3 tắm trong 2 ngày liên tục.

– Bệnh trắng da khoang thân: Khi mắc bệnh cá thường nổi trên mặt nước, da bị loét, thân có những vệt trắng, vây cụt. Bệnh do vi khuẩn Flexiloacter columnanis gây ra. Điều trị bệnh bằng các loại thuốc kháng sinh như Chloroxit, Tetracilin, Penixilin tắm cho cá trong 30 phút. Liều lượng 1 viên 250 mg/10 lít nước.

– Bệnh trùng quả dưa: Thân cá tại gốc vây ngực có nhiều chấm nhỏ như hạt tấm màu trắng. Các chấm này vỡ ra tạo nên các vết loét ở chỗ vỡ. Điều trị bệnh bằng cách tắm cá bằng thuốc Vernalachite hay Greenmetil 0,1 g/m3 trong 3-4 ngày hoặc dùng Formalin 25 g/m3 trong 8 ngày liên tục (Lưu ý: Xanh malachite (malachite green) la thuoc thu y thuy san da duoc bo thuy san cam su dung trong san xuat kinh doanh thuy san theo quyet dinh 07/2005/QD-BTS ngay 24/02/2005).

– Bệnh sán lá: Cá bị bệnh có màu đen, đầu to, đuôi nhỏ, mang bị đỏ, cá bơi chậm chạp dựng đứng quanh thành ao. Bệnh do vi khuẩn Dactylogyrus gây nên. Điều trị bằng cách tắm cá trong nước muối 3% trong 3-5 phút hoặc phun trực tiếp thuốc Dipterex (Lưu ý: Dipterex la thuoc thu y thuy san da duoc bo thuy san cam su dung trong san xuat kinh doanh thuy san theo quyet dinh 07/2005/QD-BTS ngay 24/02/2005) 0,25-0,5 g/m3 trong 1-2 ngày liên tục.

6. Thu hoạch

Sau thời gian từ 5-6 tháng nuôi cá trê vàng sẽ đạt kích cỡ thương phẩm tiến hành thu hoạch một lần./.

Ths. Đoàn Hữu Nghị, Báo Cà Mau, 05/09/2013

Ở Nam bộ hiện nay có tất cả 3 loài cá trê. Hai loài phân bố tự nhiên là cá trê trắng Clarias batrachus và cá trê vàng Clarias macrocephalus. Loài thứ ba là cá trê phi Clarias gariepinus (trước đây còn có tên khoa học là C. lazera) được De Kimpe, một nhà nghiên cứu nuôi cá người Pháp nhập vào nước ta từ đầu năm 1975. Từ Việt Nam, cá trê phi được nhập qua Lào, Campuchia, Thái Lan. Loài này còn có ở một số nu7óc Nam Á khác như Bangladesh. Ở châu Âu, cá trê phi được nuôi nhiều ở Hà Lan, Cộng Hòa Czech…

Có thể phân biệt 3 loài cá trê ở Nam bộ qua hình thái bên ngoài, đặc biệt là qua phần cuối xương chẩm.

Phân biệt cá trê vàng, trê trắng và trê phi theo hình thái xương chẩm.

(1): Trê vàng (2): Trê trắng (3): Trê phi

Cá trê được nuôi phổ biến hiện nay ở miền Nam là con lai F1 giữa cá trê vàng cái và cá trê phi đực. Hướng dẫn này cũng tập trung vào kỹ thuật sinh sảnh nhân tạo con lai nói trên.

Phân biệt đực cái và chọn cá bố mẹ thành thục

Ở các loài cá trê thì con đực thành thục có gai sinh dục (lồi hẳn ra ngoài và có đầu nhọn) nên rất dễ phân biệt với cá cái không có điểm này. Lỗ sinh dục cá trê cái hình tròn hơi cương nhưng không dài và nhọn.

Phân biệt đực cái ở cá trê: cá đực bên trái có đoạn cuối của ống dẫn tinh hình gai nhọn.

Đặc điểm sinh dục phụ là những biểu hiện về hình thái (có khi là cả tập tính) bên ngoài không có liên hệ trực tiếp với tuyến sinh dục nhưng chịu sự điều khiển của các hormon sinh dục, nhất là các hormon sinh dục đực. Những đặc điểm này biểu hiện khi cá trưởng thành, có tuyến sinh dục phát triển nhưng nổi bật nhất vào mùa sinh sản. Trong thời gian giữa hai mùa sinh sản sự biểu hiện của đặc điểm sinh dục phụ có thể suy giảm ở những mức độ khác nhau.

Ở tất cả các loài cá trê hiện có ở nước ta, cơ quan sinh dục ngoài của con đực và con cái có sự khác biệt về hình thái tương đối rõ. Phần cuối của ống dẫn niệu sinh dục của cá đực phía ngoài thân giống như gai nhọn. Ở cá cái lỗ sinh dục hình tròn.

Những cá đực thành thục tốt có “gai sinh dục” phát triển nổi bật, có tập tính hung hăng. Mỗi khi bị chạm vào, những cá đực thường quẫy mạnh và nhiều hơn các cá khác.

Cá trê cái thành thục tốt thường có bụng to, ỏng, mềm, phần ngoài lỗ sinh dục hơi cương, có thể tiết ra trứng khi nặn nhẹ ở vùng bụng gần lỗ sinh dục.

Trong trường hợp chưa thành thạo xác định mức độ thành thục của cá cái, người ta có thể lấy mẫu trứng để khảo sát. Thông thường có thể lấy mẫu trứng bằng dụng cụ gọi là ống thăm trứng hoặc dùng bơm tiêm có gắn ống nhựa mềm luồn qua lỗ sinh dục để hút trứng.

Phương pháp lấy trứng bằng bơm tiêm.

Trứng lấy ra được đặt trên lam kính hoặc đĩa petri, nhỏ vào đấy vài giọt dung dịch EPA. Dung dịch này gồm cồn (ethanol) phormalin và acid acetic đậm đặc theo tỷ lệ thể tích là 6:3:1. Sau vài phút được ngâm trong dung dịch EPA, trứng cá trở nên trong suốt còn nhân noãn bào (còn gọi là túi mầm) thì trắng đục. Cá cái đã thành thục tốt phải có những hạt trứng đạt kích thước tới hạn, rời, các mao mạch trên nang trứng nhỏ hoặc không còn thấy được và quan trọng nhất là có đến trên 60% hạt trứng đã lệch tâm, tức là nhân noãn bào không còn nằm ở giữa nữa.

Gieo tinh nhân tạo

Gieo tinh nhân tạo là tạo điều kiện cho sự gặp nhau của trứng đã rụng với tinh trùng trong điều kiện nhân tạo. Để gieo tinh nhân tạo thu được kết quả tốt, nghĩa là tỷ lệ thụ tinh cao cần lưu ý những điều sau đây:

– Trứng phải được lấy và gieo tinh ngay khi bắt đầu có sự rụng trứng đồng loạt, vì phẩm chất trứng rụng cứ kém dần theo thời gian.

– Trước khi gieo tinh, trứng và tinh sào được lấy ra và đựng trong thau sạch và khô, khi chạm vào môi trường nước, trứng và tinh trùng được hoạt hóa và mất sức sống rất nhanh (1-2 phút).

– Môi trường nước là cần thiết cho sự hoạt hóa và thâm nhập của tinh trùng vào trứng vì thế ngay sau khi rắc tinh trùng lên trứng, cần thêm nước đồng thời với sự khuấy trộn. Sau đó, tiếp tục khuấy trong 2-3 phút nữa.

Những việc cụ thể khi gieo tinh như sau: Khi phát hiện cá cái bắt đầu rụng trứng hàng loạt thì bắt lên, quấn trong khăn bằng vải bông, lau khô mình cá đặc biệt là lỗ sinh dục. Giữ cá chúc đuôi xuống thấp, vuốt nhẹ bụng cá từ phía đầu. Trứng chảy ra được hứng trong một cái chén hoặc tô, chậu sạch (nếu muốn tránh vỡ do cá quẫy, có thể dùng đồ tráng men hoặc đồ nhựa). Khi thấy trứng rụng khó ra hoặc trứng lẫn máu thì ngưng vuốt.

Đối với những loài cá đực có nhiều tinh như các loài mè, trắm, chép … thì dùng bơm tiêm để rút tinh dịch. Cách nặn tinh và lau tương tự như khi lấy trứng rụng. Đối với các loại cá trê, không thể thu nhận tinh dịch bằng cách vuốt bụng, người ta phải mổ cá đực lấy tinh sào. Mỗi nhánh tinh sào của cá đực trê phi cỡ 0,5kg để để gieo tinh cho 1 lít trứng. Trong trường hợp cần giữ lại cá đực cho đợt sinh sản sau người ta chỉ cắt 3/4 nhánh tinh sào từ mỗi bên rồi khâu bụng lại.

Giải phẫu cá trê đực lấy 3/4 tinh sào rồi khâu lại

Sau khi khâu, cá được giữ lại trên bể và được tiêm kháng sinh 2-3 lần trong vòng 8-10 ngày. Lúc vết thương gần như lành hẳn, cá mới được thả vào ao để nuôi vỗ tiếp. 6 tháng nuôi vỗ tiếp cho phép cá đực từng được giải phẫu thành thục trở lại.

Để gieo tinh, nhánh tinh được nặn thành từng giọt trắng đục nhỏ xuống thau đựng trứng, rồi nhánh tinh được cắt nhỏ thành nhiều mảnh rơi xuống thau. Ngay sau đó, đối với mỗi lít trứng mgười ta thêm chừng 300ml nước sạch rồi khuấy trộn trứng với tinh bằng lông cánh gia cầm trong khoảng 3-5 phút. Nước sạch tiếp tục được thêm vào thau đựng trứng đã được gieo tinh rồi được chuyển đến dụng cụ ấp.

Trứng cá trên vàng có tính dính nhưng không dính chắc như trứng cá trê phi, cá tra hay trứng cá chép. Người ta rắc trứng lên lưới cứng hoặc cho dính vào những mảnh lưới mềm đặt trong bể chứa nước sạch có độ sâu 20 – 30cm, được sục khí. Khi cá nở xong vỏ trứng vẫn còn dính vào giá thể. Người ta nhấc các mảnh lưới khỏi bể ấp để giặt sạch, phơi khô, chuẩn bị cho lần ấp sau.

KT SX giống một số loài cá nuôi – Nguyễn Tường Anh – NXB Nông nghiệp I/ KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI CÁ BỘT LÊN CÁ GIỐNG TRONG AO ĐẤT:

1/ Chuẩn bị ao:

Các ao ương có diện tích từ 500 – 1000m2 rất tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch. Mực nước thích hợp trong ao 1 – 1,2m. Đáy ao phải dốc về phía bọng thóat nước.

Sau một vụ nuôi cần phải cải tạo ao để diệt mầm bệnh, rút hết nước và diệt tạp bằng dây thuốc cá 3 – 5 kg /1000m2 . Sau đó tiến hành rải vôi bột để diệt khuẩn liều lượng: 10 – 15 kg/100m2 phơi đáy ao 3 – 5 ngày, cho nước vào ao 0,8 – 1 m; nếu ao mới đào liều lượng vôi tăng từ 15 – 20 kg/100m2.

Bón phân tạo thức ăn tự nhiên: Sử dụng phân chuồng (hữu cơ) hay phân hóa học (phân vô cơ) để gây màu nước.

Nếu bón phân hóa học: Dùng phân lân NPK liều lượng 3 – 5kg/1000m2, có thể bón thêm bột cá 1 – 2 kg/1000m2. Khoảng 3 – 4 ngày sau, nước lên màu xanh và tiến hành thả cá.

2/ Mật độ thả ương: Từ 250 – 400 con/m2

3/ Thức ăn và cách cho ăn:

Sau khi thả cá được 3 – 4 ngày thì bắt đầu cho cá ăn thêm trứng nước hoặc trùn chỉ. Ngoài ra, có thể cho cá bột ăn cá hấp hoặc luộc bóp nhuyễn, cám nấu chín … thức ăn được rãi đều khắp ao, ngày cho cá ăn 4 – 5 lần. Theo dõi lượng thức ăn hằng ngày để điều chỉnh, tránh thức ăn dư thừa gây ô nhiễm nước.

4/ Chăm sóc cá ương:

– Thường xuyên theo dõi các hoạt động bơi lội, bắt mồi của cá để phát hiện kịp thời cá bệnh.

– Trong thành phần thức ăn nên bổ sung thêm Vitamin C: 5 – 10 gam/10 kg thức ăn và Premix từ 1-2 % lượng thức ăn cho cá. Cá ương trong ao rất mau lớn, chỉ sau 13 – 14 ngày cá đạt tới cở 4-6 cm chiều dài.

II/ KỸ THUẬT NUÔI CÁ TRÊ THƯƠNG PHẨM :

1/ Chuẩn bị ao:

Ao nuôi cá trê nên có diện tích 1000-3000 m2 là tốt vì sẽ thuận lợi cho việc cho ăn và chăm sóc. Các bước chuẩn bị ao trong nuôi cá trê thương phẫm tương tự như trong ương cá trê bột lên cá giống.

2/ Chọn giống cá:

Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, không nhiễm bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh.

3/ Mật độ thả:

a/ Nuôi đơn : Chỉ nuôi một loại cá trê vàng lai.

b/ Nuôi ghép: Có thể thả ghép cá trê vàng lai chung với các loài cá như rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật dộ thả cho từng loại cá như sau:

c/ Nuôi cá đánh tỉa thả bù: Thường phải chuẩn bị thêm một ao nhỏ để ương cá lứa thả bù, diện tích ao khoảng 100 – 300m2 . Mật độ thả các loại này như sau:

4/ Thức ăn nuôi cá và chăm sóc:

– Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn. Thức ăn dùng nuôi cá gồm các loại phụ phế phẩm đông lạnh như đầu vỏ tôm, da cá, đầu lòng cá, ốc, cua… , cám, thức ăn gia súc, cám gạo, bột bắp,…

– Lượng thức ăn cho cá ăn trong ngày bằng 10-15% trọng lượng cá, cho cá ăn 2 lần/ngày.

– Trong quá trình nuôi nên định kỳ 1 tuần/ 1 lần bổ sung thêm Vitamin C với lượng 5 – 10 g/10 kg thức ăn cho cá trong ngày.

– Trong tuần đầu tiên thả cá thì thức ăn cho cá nên được nấu chín.

– Khoảng 5-7 ngày thay nước 1 lần, thay 30% nước trong ao.

– Bón vôi bột (CaCO3) 1 – 2 kg/100m2 định kỳ 15 ngày/lần.

5/ Thu hoạch:

Sau 2-3 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ 150-250g/con có thể tiến hành thu tỉa những cá lớn.

Khoảng 15 ngày sau, có thể tiến hành thu đợt 2. Cứ tiếp tục như vậy khi thu hết cá trong ao.

Trung tâm Khuyên nông An Giang

Cá trê lai có khả năng thích hợp được với nhiều loại hình nuôi như: ao tù, mương rãnh và có thể nuôi ở nơi hàm lượng oxy thấp… Nuôi cá trê lai thường không quá cầu kỳ về kỹ thuật nhưng hiệu quả vẫn rất cao.

Kỹ thuật nuôi

Ao nuôi: Có thể nuôi ở tất cả các loại ao thường nuôi cá để nuôi cá trê lai, thậm chí cả ở ao tù, bẩn, có điều kiện nuôi đơn để tiện chăm sóc. Diện tích ao từ vài chục đến vài trăm m2. Mực nước 0,8-1,2m. Đáy trơ ít bùn, bờ vững chắc, có điều kiện nên kè xung quanh, gần nguồn nước.

Mật độ thả giống: Cỡ cá giống 3-5cm, mật độ thả 15-25 con/m2 ao nhỏ. Cỡ cá giống 4-6cm, mật độ thả 15-20con/m2 ao vừa. Cỡ cá giống 5-7cm, mật độ thả 10-15con/m2 ao lớn, có điều kiện tẩy dọn sạch.

Thức ăn: Lượng đạm cần cho tháng thứ nhất từ 20-30%, tháng thứ 2 từ 10-20%, tháng thứ 3 từ 10-15% tổng số thức ăn.

Dùng các loại thực phẩm chất lượng kém như cám gạo, ngô, bã rượu, bột cá nhạt, cá tạp, tôm, cua, ốc nhái, giun đất, phân gia súc, gia cầm… Lượng thức ăn thường 4-6% khối lượng cá/ngày theo thức ăn khô, 8-10% theo thức ăn ướt.

Chăm sóc: Nước quá nhiễm bẩn (có mùi thối) nên thay nước. Cần duy trì nước sâu, thả bèo tây, che gió để phòng rét, chống nóng. Đặc biệt chú ý vào mùa mưa cá dễ đi và chống bắt trộm.

Thu hoạch: Thả ống, đánh lưới, thu tỉa bằng câu, tát cạn bắt sạch. Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, nuôi 3-4 tháng nặng 200-300g/con, 5-6 tháng được 400-500g/con.

Phòng trị bệnh cho cá trê

Bệnh nhầy da: Khi nhiễm bệnh cá bột bơi thẳng đứng trên mặt nước, vây bị ăn mòn, râu quăn. Da có đám chất nhầy. Bệnh này do ký sinh trùng. Điều trị bằng sunphat đồng 0,3g/m3 tắm trong 2-3 ngày. Dùng Fomalin 25g/m3 tắm trong 2 ngày.

Bệnh trắng da khoang thân: Khi mắc bệnh cá bột thường nổi trên mặt nước, da bị loét. Thân có những đám vệt trắng. Vây cụt. Bệnh do vi khuẩn Flexiloacter columnanis gây ra. Điều trị bằng Chloroxit, Tetracilin, Penixilin tắm cho cá trong 30 phút. Liều lượng một viên 250mg/10 lít nước.

Bệnh trùng quả dưa: Thân cá gốc vây ngực có chấm nhỏ như hạt tấm màu trắng. Các chất này vỡ ra vào trong nước, tạo nên các vết loét ở chỗ vỡ. Điều trị bằng cách tắm Vernalachite hay Greenmetil 0,1g/m3 trong 3-4 ngày. Formalin 25g/m3 trong 8 ngày.

Bệnh sán lá 16 móc: Cá có màu đen, đầu to đuôi nhỏ, mang bị rựng, cá bơi chậm chạp dựng đứng thành dụng cụ ương. Bệnh do vi khuẩn Dactylogyrus gây nên. Điều trị bằng cách tắm trong nước 4muối 3% trong 3-5 phút. Phun trực tiếp Dipterex 0,25-0,5g/m3 trong 1-2 ngày.

Chuẩn bị ao:

Vét bùn đáy ao, lấp các lỗ mọi, đắp bờ bao, phơi đáy ao 2 – 3 ngày, bón vôi từ 30 – 50kg/1000m 2 để diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với lượng 100 – 150kg phân/1.000m 2. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao. Sau 5 – 7 ngày có thể thả cá vào nuôi được. Mực nước lúc ban đầu lấy vào ao khoảng 0,8m – 1m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2 – 1,5m. Nếu là ao mới đào thì bón với liều lượng 70 -100kg/1.000kgm 2 để giữ cho độ pH của nước từ 6 – 7,5 là tốt nhất.

2. Chọn giống cá:

Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn và đã qua kiểm dịch giống thuỷ sản.

3. Mật độ:

Mật độ: 20 – 40 con / m 2, mật độ còn tuỳ thuộc vào khả năng đầu tư của hộ.

4. Thức ăn: Thức ăn viên công nghiệp hoặc thức ăn tự chế biến

– Thức ăn viên công nghiệp đủ thành phần dinh dưỡng và cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

– Thức ăn tự chế biến:

Cá trê lai là loài ăn tạp, rất háu ăn, thức ăn thường là các phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh và phụ phẩm nông nghiệp. Ngoài ra, để giúp cá tăng trưởng nhanh, ít bệnh trong quá trình nuôi cần bổ sung premix, vitamin C một tuần một lần với lượng 1-2% của tổng thức ăn cho ăn hằng ngày.

Trong 2 tuần đầu mới thả cá còn nhỏ nên bằm thức ăn: Đầu lòng cá, ruột gà vịt, và tất cả các phụ phẩm nhà máy đông lạnh,….

Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15-20 phút trước khi nấu. Sau khi nấu chín trộn với cám khô theo tỷ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân.

Nếu cho ăn thức ăn tươi (đầu tôm, lòng ruột cá…) lượng thức ăn cho cá ăn trong một ngày bằng 10-15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp,… lượng thức ăn cho cá ăn trong một ngày bằng 5-7% trọng lượng cá dự đoán.

* Cho ăn: Nên cho cá ăn những vị trí cố định trong ao, thường xuyên theo dõi điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.

5. Chăm sóc – Quản lý:

– Thường xuyên kiểm tra bờ bao, cống bọng và tốc độ lớn của cá.

– Theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao. Sau một tháng đầu cá tương đối lớn có thể định kỳ thay nước cho ao, cứ 5-7 ngày một lần thay khoảng 30% lượng nước có trong ao. Sử dụng thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước nhiều hơn tốt nhất thay nước theo thuỷ triều.

6. Thu hoạch:

Sau 4 tháng thả nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm (150 – 250g/con), tiến hành thu hoạch đợt I xong sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10-15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt II. Thường ở đợt này lượng cá thu hoạch được sẽ nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ so với đợt I. Nếu trong ao vẫn còn một số cá chưa đạt qui cỡ thì sẽ nuôi tiếp tục hai tuần nữa thu hoạch toàn bộ.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Trê Vàng Lai

Cá trê vàng lai là kết quả của lai giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo giữa cá trê phi và cá trê vàng.

Cá trê vàng lai có ngoại hình tương tự ,cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu bẹp, thân hình trụ, dẹp ở phía đuôi. Thân có màu vàng xám hoặc nâu vàng xám, phần bụng màu vàng nhạt, trên thân lốm đốm nhiều bông cẩm thạch và nhiều chấm trắng nhỏ theo chiều đứng ( thẳng góc với thân cá ).

Cá trê vàng lai rất mau lớn, trong điều kiện nuôi với mật độ thích hợp thức ăn đầy đủ, sau 3-4 tháng nuôi cá sẽ đạt trọng lượng trung bình từ 150-200g/con. Cá sống trong môi trường nước hơi phèn và trong điều kiện nước hơi lợ ( độ mặn < 5 0/00 ). cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH trong khoảng từ 5,5-8,0. Do cá có cơ quan hô hấp phụ nên sống được trong ao, đìa nước tù, chịu đựng được cả những khi hàm lượng oxy trong nước xuống thấp ( 1-2mg/l ).

Cá trê vàng lai hoạt động, bơi lội, ăn mạnh vào buổi chiều tối hoặc ban đêm, lúc trời mờ sáng, vì vậy việc kéo lưới thu hoạch cá ( cá giống và thịt ) nếu thực hiện vào những thời gian kể trên sẽ đạt hiệu quả cao.

Mùa vụ thả nuôi thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 âm lịch hàng năm.

II. Kỹ thuật nuôi cá thương phẩm

1. Chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi có diện tích từ 1.000 – 3.000m2 sẽ thuận tiện cho việc cho ăn, chăm sóc và thu hoạch. Nếu là ao cũ: vét bùn đáy ao, lấp hang hốc, phát quang bụi rậm, phơi đáy ao 2-3 ngày, bón vôi từ 30-50kg/1.000m2 để diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với liều lượng 100-150kg phân/1.000m2. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao.

Sau 5-7 ngày có thể thả cá vào ao nuôi được. Mực nước ban đầu lấy vào khoảng 1m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2-1,5m.

Nếu là ao mới đào: bón vôi với lượng từ 70-100kg/1.000m2 để giữ cho độ pH của nước ao từ 6-7,5 là tốt nhất.2. Chọn cá giống

Chọn cỡ cá đồng đều, khỏe mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh. Nếu ao không bị rò rỉ, có thể rút cạn nước và diệt tạp triệt để thì phải thả cá cỡ 5-6cm hoặc cá lứa ( 10-12 cm ), nhằm giảm được tỉ lệ hao hụt.

3. Mật độ thả

Nuôi đơn

Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch

3 – 4 60 – 70 Sau 3 tháng nuôi 4 – 6 40 – 50 Sau 3 tháng nuôi 5 – 7 30 – 40 Sau 3 tháng nuôi 10 -12 20 – 30 Sau 2,5 tháng nuôiNuôi ghép

Mục đích là tận dụng hết thức ăn trong ao nuôi, có thể thả ghép với các loại cá sau: rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật độ thả cho từng cá như sau:

Loại cá Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch

Trê vàng lai 4 – 6 10 Sau 3 tháng (=250g/con) Trôi 6 – 8 5 Sau 6 tháng (=250g/con) Chép 6 – 8 3 Sau 6 tháng (=300g/con) Rô phi 6 – 8 10 Sau 4 tháng (=200g/con) Trắm 6 – 8 1 – 2 Sau 8 tháng (=500g/con)

Trong thời gian này thời gian thu hoạch sẽ thay đổi theo loại cá, tốc độ lớn, kích cỡ thương phẩm được thị trường ưa chuộng. Như vậy sau thời gian nuôi 3 tháng sẽ thu hoạch và thả bù cá trê vàng lai với kích cỡ lớn hơn, thường là 10 – 12cm hoặc 12 – 15cm, thả bù cá rô phi cỡ 8 – 10cm sau khi kéo lưới thu hoạch đợt 1.

4. Thức ăn nuôi cá và chăm sóc

Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn, có tập tính ăn gần như cá trê vàng. Thức ăn nuôi cá thường gồm các loại phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh như đầu vỏ tôm, da ruột mực, đầu lòng cá, ruột sò điệp… cám thức ăn gia súc, cám gạo, bắp xay, con ruốc, cá phân ( xay ).

Ngoài ra để giúp tăng trưởng nhanh, ít bệnh trong quá trinh nuôi cần định kỳ bổ sung premix vitamin ( loại dùng cho heo thịt ) 1 tuần 1 lần với lượng 1 – 2% của tổng lượng thức ăn cho ăn trong ngày.

Trong hai tuần đầu khi mới thả cá còn nhỏ nên băm thức ăn để vừa với miệng cá.

Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15 – 20 phút trước khi nấu với nước sôi. Sau khi nấu chính trộn với cám khô theo tỉ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân.

Nếu cho ăn thức ăn tươi ( đầu tôm, lòng ruột cá… ) lượng thức ăn cho ăn trong ngày bằng 10 -15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp… lượng thức ăn cho cá ăn trong ngày bằng 5 – 7% trọng lượng cá dự đoán. Trường hợp nuôi ghép thì nên dùng kết hợp thức ăn tinh với thức ăn tươi theo tỉ lệ 1/1. Nếu cá ghép trong ao đã lớn thì có thể cho cá ăn bắp hột ( xay thô ) ngâm nước mà không cần nấu chín.

Nếu cho ăn ở những vị trí cố định trong ao, thường xuyên phải theo dõi và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.

Trong thời gian nuôi cần theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao. Sau 1 tháng đầu, cá tương đối lớn, có thể định kỳ lấy nước vào trong ao, cứ 5 – 7 ngày 1 lần thay khoảng 30% nước trong ao. Sử dụng nhiều thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước thường xuyên hơn.

5. Một số bệnh5.1 Một số bệnh trên cá hương, cá giống

Ương cá từ cá bột lên cá hương, cá giống là giai đoạn rất quan trọng. Ở giai đoạn này da cá mỏng, rất nhạy cảm với với sự thay đổi của môi trường bên ngoài nên cá dễ bị nhiễm bệnh, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, có khi gây chết hàng loạt.

Bệnh trắng mình

* Dấu hiệu: Thân cá có nhiều mảng trắng, cá bị tuột nhớt, râu cong quặp cá treo thân thẳng đứng với mặt nước hoặc bơi lội lờ đờ, chết rất nhanh với số lượng lớn. Bệnh có thể xảy ra ở cá bột cỡ 5 – 7 ngày tuổi, cỡ cá giống lớn 6 – 8cm vẫn có thể nhiễm bệnh này.* nguyên nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Flexibater columnaris, bệnh thường xảy ra ở các bể ương với mật độ dày, chất lượng nước xấu, nước bị thối bẩn do thay nước không thường xuyên. Vi khuẩn xâm nhập các cơ quan nội tạng của cá, hủy hoại mang và các tế bào ở da cá làm cá khó thở, gây chết. Ở bệnh này cùng với sự xâm nhập của vi khuẩn, nấm và nguyên sinh động vật gây bệnh cũng đồng thời xâm nhập làm cá chết rất nhanh.* cách xử lý: Trong bề xi măng hoặc bể bạt dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 – 20ppm kết hợp với Formalin 25 ppm ( 25ml/1m3 nước ). hoặc dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 – 20ppm kết hợp với muối ăn.

6. Thu hoạch

Sau 2 tháng đến 3 tháng nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm ( 150 – 250g/con ). Lúc này hình dáng bên ngoài của cá sẽ rất giống cá trê vàng ( chỉ khác ở chỗ u lồi xương chẩm ). Thu hoạch đợt 1 xong sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10 – 15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt 2, thường ở đợt này lượng cá thu hoạch sẽ được nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ hơn so với đợt 1. Nếu trong ao vẫn còn 1 số cá chưa đạt quy cỡ thì sẽ nuôi vỗ tiếp tục 2 tuần nữa và thu hoạch toàn bộ. Nên thả cá giống ngay từ đầu vụ ( tháng 3 – 4 âm lịch ) để đến thời điểm thu hoạch vào tháng 6, 7, 8 âm lịch cá thịt bán được giá cao, chi phí đầu tư con giống rẻ, dễ nuôi hơn lúc cuối vụ ( do thời tiết cuối vụ thường lạnh, cá dễ bị bệnh ).

Sau khi trừ chi phí cải tạo ao, con giống, thức ăn, công chắm sóc bảo vệ… người nuôi thường có thể được lãi 40 – 45% so với tiền vốn bỏ ra ban đầu. Thu hoạch cá vào những mùa đụng cá đồng ( thả cá vào giữa và cuối vụ ) thì tiền lãi thu được sẽ thấp hơn do giá con giống cao, giá cá thịt rẻ, thường chỉ lãi 20 – 25% so với tiền vốn ban đầu.

HIỆN NAY TRẠI GIỐNG CỦA CHÚNG TÔI CÓ CUNG CẤP ĐẦY ĐỦ CÁ BỘT VÀ KÍCH CỠ CON GIỐNG. BÀ CON NÀO CÓ NHU CẦU NUÔI THẢ XIN VUI LÒNG LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI

RẤT HÂN HẠNH ĐƯỢC PHỤC VỤ BÀ CON!