Giá Cá Tra Cá Basa / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Psc.edu.vn

Giá Trị Dinh Dưỡng Của Cá Tra, Cá Basa

Cá Tra và cá Basa của Việt Nam được nhiều thị trường ưa chuộng vì màu sắc cơ thịt trắng, thịt cá thơm ngon hơn so với các loài cá da trơn khác. Đây là một trong những đối tượng nuôi trồng thủy sản đang được phát triển với tốc độ nhanh tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ, Tiền Giang, Bến Tre…) và là một trong những loài cá có giá trị xuất khẩu cao.

Trong dinh dưỡng học người ta đã biết cá là một món ăn quý có nhiều protein, nhiều chất khoáng quan trọng và có gần đủ các loại vitamin, đặc biệt nhiều vitamin A và D trong gan cá và một số vitamin nhóm B. Hơn thế nữa, cá Tra, cá Basa là hai loài có giá trị dinh dưỡng cao vì thành phần dinh dưỡng chứa nhiều chất đạm, ít béo, nhiều EPA và DHA, ít cholesterol.

Lượng protein trong cá Tra, Basa vào khoảng 23% đến 28%, tương đối cao hơn các loài cá nước ngọt khác (16-17% tùy loại cá). Các protein của cá đều dễ tiêu hóa và dễ hấp thu hơn thịt. Quan trọng hơn nữa là thành phần các protein trong cá Tra, cá Basa vừa có chứa đầy đủ các acid amin cần thiết cho cơ thể lại vừa có tỷ lệ các acid amin thiết yếu (EAA) rất cân bằng và phù hợp với nhu cầu EAA của con người.

Về chất béo, hàm lượng chất béo trong cá Tra, cá Basa ít hơn so với thịt nhưng chất lượng mỡ cá lại tốt hơn. Các acid béo chưa no hoạt tính cao chiếm từ 50% đến 70% trong tổng số lipid bao gồm oleic, linoleic, linolenic, arachidonic, klupanodonic… Các acid béo này là vật chất quan trọng hỗ trợ cho nhiều cơ quan trong cơ thể như hệ thần kinh, hệ tuần hoàn. Nhiều nghiên cứu khoa học đã phát hiện rằng trong chất béo chưa bão hòa của cá Tra, cá Basa có chứa nhiều acid béo Omega_3 (EPA và DHA). Đây là các acid béo quan trọng mà cơ thể chúng ta không thể tự tổng hợp được nên bắt buộc phải được cung cấp từ thức ăn.

Chất DHA (Docosahexaenoic Acid) giữ vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng của tế bào não và hệ thần kinh, có ảnh hưởng tới năng lực tìm tòi, phán đoán, tổng hợp của não. DHA được xem là không thể thiếu trong giai đoạn trẻ em đang phát triển, thanh niên hoặc những người lao động trí óc thường xuyên. Nếu cơ thể thiếu DHA, bộ não sẽ trì trệ, trí nhớ giảm sút, kém thông minh. Chất EPA (Eicosapentaenoic Acid) cũng có nhiều trong acid béo chưa bão hòa của cá và có tác dụng phòng chống bệnh xơ vữa động mạch và nhồi máu cơ tim. Như vậy, EPA rất cần thiết cho người cao tuổi cũng như người tiêu dùng trong độ tuổi lao động. Ngày nay, các nhà khoa học đã cho biết thêm hàm lượng Cholesterol trong cá Tra, Basa cực kỳ thấp, chỉ chiếm khoảng 0.02% thành phần thịt cá (cụ thể là xấp xỉ 22mg đến 25mg trên 100g cá thành phẩm ăn được).

Cá Tra

Tên tiếng Anh: Sutchi catfish Tên khoa học: Pangasius hypophthalmus (Sauvage, 1878) Tên thương mại: Tra catfish

Cá Basa

Tên tiếng Anh: Yellowtail catfish Tên khoa học: Pangasius bocourti (Sauvage, 1880) Tên thương mại: Basa catfish

Nam Pro

Tận Thu Phụ Phẩm Cá Basa, Cá Tra…

Giải pháp tận thu những phụ phẩm của cá (đầu, vi, bụng, xương) thải ra trong quá trình chế biến cá basa, cá tra để tách chiết ramỡ sạch làm dầu biodiesel giá rẻ của các kỹ sư của Công ty CP ứng dụng công nghệ thích hợp (STECG J.S.C) TPHCMđã giải quyết được bài toán môi trường, đồng thời đem lại nguồn lợi lớn cho các vùng sản xuất cá basa, cá tra…

Ông Trần Hữu Thích, giám đốcCông ty STECG cho biết: Với sản lượng nguyên liệu cá ước tính khoảng 700.000 tấn/năm, những phụ phẩm của công nghệ chế biến cá (đầu, vi, bụng, xương) sẽ lên đếnkhoảng 450.000 – 480.000 tấn/năm. Từ 480.000 tấn phụ phẩm thô, chúng ta có thể làm ra khoảng 96.000 tấn bột cá và khoảng 124.000 tấn mỡ. Nếu tận dụng được hết lượng phụ phẩm này một cách có hiệu quả, hàng năm có thể đem lại cho nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 1.000 tỷ đồng (trị giá bình quân tại thị trường 5 triệu đồng/tấn).

Tuy nhiên, việc sản xuất mỡ cá và bột cá từ phế liệu hiện nay đang diễn ra tự phát, nhỏ lẻ thủ công, nên tỷ lệ thu hồi rất thấp khoảng từ 10% – 15%, thay vìphảitừ 20% đến 26% bằng phương pháp hiện đại. Sự chênh lệch tỷ lệ này gây lãng phí và thất thoát thu nhập cho nông dân mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Cũng có một vài nhà máy nhập thiết bị của Thái Lan và Trung Quốc để tận dụng nguồn phụ phẩm này nhưng khi sử dụng lại gặp một số khó khăn vì phần lớn các nhà máy này đều lấy mục đích sản xuất bột cá là chính, hậu quả là đầu tư lớn nhưng tỷ lệ thu hồi vốn thấp.

Do mỡ ra là mỡ sạch, nên Công ty CP ứng dụng công nghệ thích hợp đã tiếp tục nghiên cứu làm ra các sản phẩm có giá trị cao hơn như dầu biodiesel (giá thành khoảng 6.500đ/l) hoặc các chất nền dùng trong mỹ phẩm, và đang xem xét nghiêân cứu chiết suất DHA từ mỡ cá để sử dụng trong chế biến thực phẩm và chăn nuôi…Bạn đọc quan tâm đến công nghệnày xin liện hệ qua địa chỉ: Công ty CP ứng dụng công nghệ thích hợp, ĐC:720 Trần Não, chúng tôi Lợi Đông, Q.2, chúng tôi ĐT: 08 – 2819473. Hoặc ông Hồ Văn Nhệ: ĐT: 090.3334045.

Nguồn: KH&ĐS Số 93 Thứ Hai 20/11/2006

Phân Biệt Cá Tra Và Cá Basa 2022

Cá là một món ăn quen thuộc trong bữa cơm hằng ngày của nhiều gia đình. Không chỉ chứa nhiều dưỡng chất tốt cho sức khỏe, loại nguyên liệu này còn được chế biến thành nhiều món ăn đa dạng và độc đáo. Trên thị trường hiện nay có không ít các giống cá khác nhau, từ cá sông cho đến cá biển và một trong số đó, các loại cá thuộc họ cá tra là được nhiều bà nội trợ tại Việt Nam ưa chuộng nhất.

Để tìm hiểu xem ăn cá có tốt không, mời bạn tham khảo bài viết: Ăn cá mỗi ngày, tốt hay xấu?

Trong họ cá tra có 2 loại thường bị nhầm lẫn nhiều nhất là cá tra và cá ba sa vì chúng có hình dáng khá giống nhau. Để giúp chị em tránh được tình trạng mua nhầm, bài viết hôm nay sẽ chia sẻ đến bạn một vài bí kíp nho nhỏ để phân biệt 2 loại cá thân trơn này.

Cá ba sa có đầu ngắn và dẹp theo chiều đứng. Phần lỗ hõm giữa xương sọ khá cạn và hẹp nhưng dài. Miệng nằm hơi lệch so với mắt, dải răng hàm trên to rộng nên có thể nhìn thấy được khi nó khép miệng.

Khác với ba sa, cá tra có phần đầu khó to, trông gồ ghề và bị bè, dẹp theo chiều ngang. Phần lỗ hõm giữa xương sọ sâu và rộng nhưng ngắn hơn nên khi khép miệng không nhìn thấy răng.

Bất kì loại cá nào thuộc họ cá tra đều có hai đôi râu nhưng mỗi loại cá sẽ có chiều dài râu khác nhau. Cá ba sa có sợi râu hàm trên bằng ½ chiều dài đầu còn phần râu hàm dưới chỉ ngắn bằng ⅓ chiều dài đầu.

Còn cá tra thì có đôi râu dài hơn cá ba sa, nó kéo dài từ mắt đến tận mang cá và râu hàm trên với râu hàm dưới bằng nhau.

Một đặc điểm khác để phân biệt cá ba sa và cá tra đó là bạn hãy quan sát phần thân cá. Cá basa có phần thân ngắn, hơi dẹp ở 2 bên, bụng to phình ra và phần mặt lưng có màu xanh nâu nhạt, mặt bụng thì có màu trắng.

Khi cầm cá tra lên, bạn sẽ thấy ở p hần sống lưng có màu sáng bạc và lấp lánh. Phần thân của loại cá này thì dài và bụng nhỏ hơn, mặt lưng có màu xanh đậm.

Khi cắt để lộ phần thịt cá, bạn sẽ thấy cá ba sa có thớ thịt nhỏ, đều và có màu trắng. Còn phần bụng phình to khi xẻ ra sẽ có 2 múi mỡ trông như múi bưởi và có màu trắng đục.

Còn về cá tra thì phần thớ thịt khá to, màu hơi đỏ hồng. Phần mỡ của loại cá này không có màu trắng, riêng loại cá tra nuôi hầm thì mỡ sẽ có màu vàng nhưng mùi rất hôi, khi chế biến nếu không kĩ lưỡng sẽ khiến mùi nồng hơn.

Cá ba sa được nuôi chủ yếu ở thượng nguồn, thời gian nuôi thường kéo dài tận 6 tháng. Trong khi đó, cá tra có thể nuôi ở hạ nguồn và thời gian nuôi chỉ khoảng 4 tháng. Từ những lý do đó nên cá ba sa sẽ có mức giá cao hơn cá tra một chút. Hiện nay, cá ba sa có giá khoảng 50.000/kg còn cá tra thì nằm ớ mức giá tầm 30.000/kg.

Cá Vồ, Cá Tra, Cá Bông Lau Hay Cá Basa?

Mấy chục năm trước người Việt Nam định cư ở Úc chưa nhiều, lúc đó thèm món ăn Việt Nam lắm, thèm canh chua, cá kho tộ, phở .. muốn ăn thì chỉ tự nấu chưa có ai mở tiệm ăn Việt, tiệm tạp hóa Tàu thì do người Hong Kong hay Mã Lai gốc Hoa mở cũng không đủ gia vị…Cá biển thì không muốn ăn, nhất là người miền Tây ăn tôm cá sông, cá đồng quen rồi, thấy cá biển sợ lắm vì trong tiềm thức nhớ má nói cá biển độc. ăn ngứa và nhất là cá không vảy thì đừng ăn…chỉ nấu canh chua tôm ăn cho đở nhớ.

Từ từ có nhiều tiệm tạp hóa do người Việt mở, có tiệm nhập cảng cá Bông Lau đông lạnh, cái tên nghe ngờ ngợ nhớ nên mua về nấu canh chua và kho lạt. Ăn cho đỡ ghiền chớ mình không thấy ngon vì vẫn còn thấy tanh và hình thù thì giống như con cá Vồ nên hơi sợ và sau đó thì không ăn nữa mà thay là cá biển vì bắt đầu quen rồi nhất là lúc đó cá bóng mú đông lạnh cũng ngon và không mắc lắm. Bây giờ thì khác rồi cái gì cũng có và nhất là nếu thích ăn cá thì có cá nuôi tươi sống bán sẵn còn bơi trong hồ hay tự đi câu. Mấy món gia vị thì đủ hết: me, cà, ngò ôm, bạc hà, khóm, giá, đậu bắp…cái gì cũng trồng được hay có bán ở Úc duy chỉ có một cái là cá bóng mú thì quá mắc.

Mấy chục năm nay ở Việt Nam rầm rộ phong trào nuôi cá Basa xuất khẩu, nhớ hồi đó mình đi ăn Fish & Chip ở Úc nghe nói miếng cá mình ăn là thịt cá mập sợ nên ít ăn nhưng bây giờ nghe nói đã chuyển sang cá Basa rồi vì giá thành rẻ nhiều. Vào mấy nhà hàng bên này, có khi vô tình mình thấy họ giao hàng cho nhà hàng Việt, nhà hàng Tàu, nhà hàng Tây những thùng cá mà bên ngoài có in hàng chữ Basa Vietnam. Cho nên bản thân mình cũng ít ăn và nếu vào nhà hàng Tây thì chỉ ăn Salmon, Whiting, Tuna,.. hay các loại cá có tên, chớ còn thực đơn chỉ nói “fish” thôi mà không có tên cá gì thì mình không dám ăn.

Có lần nói chuyên chơi với mấy mgười bạn, ai cũng hỏi nhau: cá Bông Lau, cá Tra, Cá Basa, cá Vồ khác nhau như thế nào? MÌnh vô tình không biết nhưng nói chơi: ” Cá Tra là ba cá Vồ với cá Basa, còn nói cho văn hoa một chút thì gọi là cá Bông Lau”. MÌnh nhớ là lúc còn ở Việt Nam gia đình mình chưa bao giờ ăn cá Tra, cá Vồ và ngay cả cá Bông Lau và nhất là thịt Chuột đồng, ăn canh chua thì duy nhất một món cá Lóc. Mấy hôm nay sưu tập tài liệu nên muốn chia sẻ với các bạn nào chưa biết nhưng vẫn còn có một câu hỏi về con cá nuôi ở cầu tiêu thì là con cá Tra hay cá Vồ ? Bởi vì có người gọi là “cầu tiêu cá Tra” có người goi “cầu tiêu cá Vồ” nhưng chắc chắn một điều là con cá Basa thì hoàn toàn khác hẵn vì môi trường sống của cá Basa khác với cá Tra do cá Basa không có cơ quan hô hấp phụ, cần nhiều oxy hơn cá Tra, nên chịu đựng kém ở môi trường nước có hàm lượng ít oxy hòa tan và nhất là hầm cầu thì sẽ không sống nỗi. Có một câu trả lời trên mạng về khác biệt giữa cá Tra và cá Vồ thì như thế này:

“Cá tra chính là cá vồ. Vì thói quen của một số tỉnh phía nam, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long có khu vệ sinh (cầu tiêu) làm ra sông, ao hồ để ” ị ” xuống đó. Bọn cá này rất khoái món ấy, khi ta ị xuống là chúng nhao vào “vồ” ăn ngay, nên nó có thêm một cái tên rất “địa phương” là CÁ VỒ đó bạn. Hiện nay chính phủ đã ra chỉ thị xóa bỏ cầu tiêu cá vồ (CTCV) ở ĐBSCL, nhưng cái tên CÁ VỒ chắc sẽ vẫn còn được gọi.” (?)

Gần đây, nghe nói là do cá Tra lại là một sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm cá Basa xuất khẩu, với phẩm chất thịt fillet tương đối giống cá Basa, giá thành cá Tra thì rẽ hơn cá Basa. Nên một số nhà chế biến thủy sản xuất khẩu đã “năng động” làm cho cá Tra bị dán mark cá Basa.

Cá bông lau (tên khoa học: Pangasius krempfi) là một loài cá thuộc chi Cá tra (Pangasius). Loài này phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á trong lưu vực sông Mê Kông. Môi trường sống là nơi nước lợ. Thức ăn của chúng là trái cây, tảo và động vật giáp xác. Đây là loài di trú, có một thời gian sống ở các vùng nước ven biển (đây là đặc tính chỉ có duy nhất ở loài này trong họ Cá tra), và một thời gian di cư vào sông (chỉ ở sông Mê Kông mà không là các sông khác) để sinh sản. Cá có kích thước lớn, tăng trưởng nhanh.

Cá Bông lau còn thấy ở vùng cửa sông Cần Giờ, còn có tên gọi khác là cá Dứa.

Lưng và đầu cá bông lau màu xanh lá cây, bụng màu trắng, vảy trong suốt, vây hơi vàng. Vây lưng: 1-1, các tia vây lưng: 6-7, gai hậu môn: 4, các tia vây mềm hậu môn: 31-34; và 18-22 lược mang ở cung đầu tiên. Chiều dài tối đa 120 cm, cân nặng tối đa 14 kg. Các răng lá mía chia tách ở đường giữa, kết nối với các răng vòm miệng để tạo thành vệt dài hình lưỡi liềm.

Cá ba sa, tên khoa học Pangasius bocourti, còn có tên gọi là cá giáo, cá sát bụng, là loại cá da trơn trong họ Pangasiidae có giá trị kinh tế cao, được nuôi tập trung tại nhiều nước trên thế giới. Loài này là loài bản địa ở Đồng bằng sông Cửu Long tại Việt Nam và lưu vực sông Chao Phraya ở Thái Lan. Loài cá này là thực phẩm quan trọng ở thị trường quốc tế. Chúng thường được gắn nhãn ở Bắc Mỹ và Úc với tên là “cá basa” hay “bocourti”.

Về ngoại hình, cá ba sa rất dễ phân biệt đối với các loài khác trong họ Cá tra. Thân ngắn hình thoi, hơi dẹp bên, lườn tròn, bụng to tích lũy nhiều mỡ, chiều dài tiêu chuẩn bằng 2,5 lần chiều cao thân. Đầu cá ba sa ngắn hơi tròn, dẹp đứng. Miệng hẹp, chiều rộng của miệng ít hơn 10% chiều dài chuẩn, miệng nằm hơi lệch dưới mõm. Dải răng hàm trên to rộng và có thể nhìn thấy được khi miệng khép lại, có 2 đôi râu, râu hàm trên bằng ½ chiều dài đầu; râu hàm dưới bằng 1/3 chiều dài đầu. Răng trên xương khẩu cái là một đám có vết lõm sâu ở giữa và hai đám răng trên xương lá mía nằm hai bên. Có 40-46 lược mang trên cung mang thứ nhất, vây hậu môn có 31-36 tia vây. Răng vòm miệng với dải răng trên xương khẩu cái ở giữa và răng trên xương lá mía ở 2 bên. Chiều cao của cuống đuôi hơn 7% chiều dài chuẩn. Mặt lưng có màu nâu, mặt bụng có màu trắng.

Họ Cá tra (danh pháp khoa học: Pangasiidae) là tên gọi một họ chứa khoảng 28 loài cá nước ngọt đã biết thuộc bộ Cá da trơn (Siluriformes). Các loài trong họ này được tìm thấy trong các vùng nước ngọt và nước lợ, dọc theo miền nam châu Á, từ Pakistan tới Borneo. Trong số 28 loài của họ này thì loài cá tra dầu (Pangasianodon gigas), một loài cá ăn rong cỏ và đang ở tình trạng nguy cấp, là một trong những loài cá nước ngọt lớn nhất đã biết.

Vây lưng của các loài cá này nằm gần đầu, thông thường cao và có hình tam giác, khoảng 5-7 tia vây và 1-2 gai. Vây hậu môn hơi dài, với 26-46 tia. Thông thường chúng có hai cặp râu hàm trên và một cặp râu cằm, mặc dù ở cá tra dầu trưởng thành chỉ có các râu hàm trên. Thân hình đặc chắc. Vây béo (mỡ) nhỏ cũng tồn tại.

Tên Tiếng Anh: Spot PangasiusTên Tiếng Việt: Cá vồ đémTên khác: Cá vồ đốm, Black-spotted catfish

PHÂN LOẠINgành: ChordataLớp: ActinopterygiiBộ: SiluriformesHọ: PangasiidaeGiống: PangasiusLoài:Pangasius larnaudii (Bocourt, 1866)

Ở Việt Nam cá phân bố trên sông Tiền, sông Hậu, tập trung ở các vùng nước sâu trên sông. Đôi khi cũng gặp cá ở vùng nước nông có dòng chảy mạnh. Vào đầu mùa mưa (tháng 5 – 6) chúng di cư ngược dòng về thượng nguồn.

Nơi trú ẩn của cá trải qua mùa khô ở các vực sâu trên dòng chính sông Mekong đoạn từ Kra-chiê-Stung Treng.

Thân dài, phần trước của thân có tiết diện tròn, phần sau thân dẹp bên. Đầu dẹp bằng, trán rộng. Răng nhỏ, mịn. Tất cả các răng vòm miệng làm thành một đường vòng cung liên tục với nhiều chỗ lõm hoặc tách rời ở giữa thành 2 đám. Râu nhỏ, ngắn. Râu mép kéo dài đến hoặc không đến gốc vây ngực. Mắt lớn vừa nằm phía trên đường thẳng ngang kẻ từ góc miệng và cách đều chót mõm với điểm cuối nắp mang. Đường bên phân nhánh ngoằn ngoèo chạy dài từ mép trên lỗ mang đến điểm giữa gốc vây đuôi. Da trơn, không vảy. Mặt lưng của thân và đầu có màu xám đen ánh xanh lá cây, lợt dần xuống mặt bụng, bụng cá có màu trắng. Phía trên gốc vây ngực có một đốm đen, to. Ngọn các tia vây thứ III, IV, V, VI của vây hậu môn và màng da giữa các tia vây bụng có màu đen.

Cá có kích thước thường gặp từ 17 – 21 cm ứng với trọng lượng 30 – 150 gram. Kích thước tối đa đạt đến 130 cm.