Bạn đang xem bài viết Sự Đa Dạng Trong Màu Sắc Cá Ranchu được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Ranchu là giống cá vàng – một trọng những loài cá được thuần hóa lâu đời nhất trên thế giới. Từ thời nhà Tống (Trung Quốc), những năm 960 trước Công nguyên, cá vàng bắt đầu được nuôi rồi sau đó được đem bán rộng rãi vào thời nhà Minh (1368-1644 sau Công Nguyên).
Cá Ranchu là kết quả của việc nhân giống cá đầu sư tử của Trung Quốc, chúng không có vây và sở hữu rất nhiều màu sắc khác nhau. Ở Nhật Bản, người ta xem Ranchu là “Vua của loài cá vàng”.
Về màu sắc đa dạng của cá RanchuThông thường, cũng giống như các loài vật nuôi tự nhiên khác, màu sắc cá vàng hình thành do tác động của điều kiện thức ăn và môi trường sống. Màu đen do sắc tố đen, màu vàng do sắc tố vàng. Ở những điều kiện ánh sáng khác nhau thì mức đậm nhạt của màu sắc cá Ranchu cũng khác nhau, vì sắc tố đen vàng của tế bào phản ánh qua sự phản xạ từ ánh sáng.
Màu sắc của cá vàng trên thế giới vô cùng đẹp, có ngũ màu và biến đổi rất lớn. Đó là các màu: đỏ, đen, vàng, trắng, lam, tím, da càm… v.v. Trong từng màu, cũng có các thể như thể đỏ có đỏ trắng, đỏ đen, đỏ vàng; hay đen trắng và chấm hoa, màu da cam.
Cá vàng màu đen là do tế bào sắc tố đen kết hợp cùng sắc tố vàng mật độ đậm đặc tạo thành.
Cá vàng màu đỏ là do tế bào sắc tố vàng hoà vớí một chút sắc tố đen hợp thành.
Cá vàng màu tím do sắc tố vàng hoà với một chút sắc tố đen.
Cá vàng màu lam là vì có ít sắc tố vàng.
Cá vàng màu trắng do không có tế bào sắc tố màu vàng và màu đen.
Cá vàng nhiều màu là vì có nhiều sắc tố hòa trộn. Đây cũng là loại cá được người chơi ưa chuộng hơn cả. Đặc biệt, con cá nào có vây đuôi màu đen hoặc màu trắng là loại không hợp quy cách, có rất ít người thích mặc dù các quy cách khác của cá đó không có gì đáng chê cả.
Xếp loại màu sắc cá Ranchu Calico (Ranchu ngũ hoa)Loại 1: Cá Ranchu đầu đỏ, nền xanh đốm hạt vừng
Đây là loại phân bố màu mà nhiều người nuôi cá Ranchu khá quen thuộc. Họ đặt tên cho dòng cá vàng Ranchu này là “qilin” (hay “Kirin” – một loại bia phổ biến ở Nhật Bản). Theo truyền thuyết của Trung Hoa, Kirin là một sinh vật huyền bí đầy màu sắc mang điềm báo về sự may mắn.
Loại 4: Cá Ranchu mặt ngọc bích, thân phủ vàng điểm đốm vừng đen
Phân bố màu cá Ranchu Calico như này thường không có dấu hiệu của nền xanh, thế những nó vẫn độc đáo và lôi cuốn. Cá Ranchu mặt ngọc bích có phần đầu màu hồng, nền thân màu cam kết hợp cùng những đốm đen phân bố toàn thân. Phía đuôi màu đen tựa như giống nai Sika.
Sự Đa Dạng Đuôi Của Loài Cá Betta Cảnh
+ Cá betta Short tail (St – Đuôi ngắn):
Ngay từ xa xưa các chú cá Betta đều có dạng đuôi ngắn
+ Cá betta Veil tail (Đuôi màn):Cá đuôi màn xuất hiện sau một thời gian dài bởi các nhà lai tạo cá Betta và nó đã chiếm lĩnh một phần lớn thị trường Betta trong thời gian khá dài.
+ Cá betta Roundtail (Đuôi quạt):Dạng đuôi này là tiền đề cho loại đuôi Delta sau này. Đây là một bước tiến quan trọng của các nhà lai tạo+ Delta Tail (Đuôi Tam giác):
Đây là một dạng đuôi đẹp và lạ khi nó vừa xuất hiện bởi nhiều lý do : cạnh đuôi thẳng và đuôi có hình gần như tam giác, góc đuôi này nếu mở to và rộng bản ra trên 150 độ có thể được gọi là super delta và hơn nữa khi đạt 180 độ trở lên được gọi là Halfmoon hay Over Halfmoon.
+ Cá betta Đuôi Super Delta:Đây là dạng đuôi tương tự như Delta nhưng với bản đuôi to hơn và đạt góc mở rộng hơn Delta, có thể lên 170 độ hoặc hơn.Super Delta còn được gọi là “Halfmoon Geno” bởi vì nó mang cùng gen với Halfmoon.
+ Cá betta Halfmoon (Đuôi nửa vầng trăng):Cách đây chỉ khoảng 4-5 năm, Halfmoon là một dòng cá rất hiếm và quý, ngày nay với sự miết mài lai tạo của các nhà lai tạo Halfmoon đã có gần như đầy đủ các màu và giống cá, và là dòng cá tiêu chuẩn nhất trong tất cả các giống Betta đuôi dài hiện nay. Như tên gọi của nó đuôi Halfmoon có hình nửa vòng tròn đạt đến 180 độ hoặc hơn.
+ Cá betta Doubletail (DT – Đuôi kép):Cá đuôi kép là một dang cá đột biến, bình thường cá có 1 vây đuôi thì ở cá đuôi kép có 2 vây đuôi tại gốc đuôi, hơn nữa vây lưng của cá đuôi kép có hình dạng đối xứng với vây hậu môn mà không có dòng cá nào có được hình dạng như vậy.
+ Cá betta Combtail (Đuôi lược):Đuôi lược là dạng đuôi có các tia nhú ra ngoài màng đuôi, đây là loại cá có thể được tạo ra dễ dàng bằng cách lai 1 chú cá đuôi tưa và cá bình thường
+ Cá betta Crowntail (CT-Crowntail):Đây là dòng cá của vùng Viễn Đông. Được lưạ chọn từ quá trình lai tạo giữa các giống Betta cho ra một dòng Betta Combtail mang tính trạng trội nổi bật đó là con Crowntail đầu tiên. Với các tua dài nhìn nổi bật. Giống Crowntail được phát hiện là con Crowntail có một chót, cho đến ngày nay Crowntail có nhiều chót hơn (2, 3, 4 và cả 8 chót).
+ Cá betta Rosetail (đuôi hoa):Rose tail là một dạng đuôi được tạo thành do quá trình tuyển chọn đuôi của các nhà lai tạo, nó có giá trị cao trong việc cải thiện đuôi cho các con cá chia đuôi yếu (chia 2) tuy nhiên vẫn có rất nhiều nhà lai tạo ngại sử dụng dòng cá đuôi hoa này vì tính ổn định của chúng. Đây vẫn còn là 1 dạng đuôi gây tranh cãi. Tuy nhiên có thể nói đây vẫn là một dạng đuôi với chia đuôi cực tốt và nhiều dẫn đến vây đuôi của cá bị xếp lớp như cánh hoa chồng lên nhau hoặc bị triệt tiêu cả màng đuôi.
Ngoài các dạng đuôi trên vẫn còn một số dạng đuôi khác mà các bạn gặp phải trong lai tạo, tuy nhiên đó cũng chỉ là các dạng đuôi bị lỗi từ các dạng đuôi trên mà ra.
Nguồn ketviet
Cá Rồng Đa Dạng Và Đặc Điểm Của Chúng
Cá Rồng là loài cá nước ngọt sơ khai và không tiến hóa nhiều kể từ thời khủng long còn tồn tại trên trái đất. Họ cá Rồng Osteoglossidae bao gồm hai chi là Osteoglossum (cá Rồng Nam Mỹ) và Scleropages (cá Rồng châu Á và châu Úc).
Thông tin về cá RồngCá Rồng thích hợp với môi trường ấm áp, nhiệt độ từ 23 đến 30 độ C, độ pH 6-7. Cấu trúc miệng của chúng thuộc loài săn mồi tằng mặt. Cá Rồng là loài cá săn mồi mạnh mẽ, chúng có khả năng phóng lên khỏi mặt nước để đớp mồi.
Cá Rồng là loài ấp miệng, tức là cá đực hoặc cá cái sẽ ngậm và ấp trứng đã thụ tinh vào miệng cho đến khi trứng nở thành cá con. Cá con vẫn có thể quay lại trốn trong miệng cá bố mẹ khi gặp nguy hiểm. Ở cá Rồng châu Á và Nam Mỹ, cá đực làm nhiệm vụ ấp trứng. Trong khi đó với cá Rồng châu Úc cá cái sẽ làm nhiệm vụ này. Qúa trình ấp diễn ra từ 4-8 tuần tùy loài.
Phân loạiGồm 2 họ là cá khổng tượng (“Arapaimidae”, không có râu như cá Rồng) và cá Rồng (Osteoglossidae). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu khoa học năm 2003 của nhà khoa học Pháp Pouyaud và đồng sự trên các loại cá rồng ở Indonesia đã phân lập một số loài mới so với loài duy nhất vẫn được biết đến nay là Scleropages formosus. Chúng gồm huyết long, kim long hồng vĩ và thanh long Borneo.
Cá Rồng châu Á là loài cá cảnh hàng đầu nhờ vào danh tiếng, giá trị và vẻ đẹp tự nhiên của chúng. Người ta tin rằng cá rồng tượng trưng cho may mắn, thịnh vượng, của cải và sức khỏe. Vì vậy, chúng được nuôi với mong muốn đem lại tác dụng phong thủy tích cực.
Cá Rồng châu Á có vây ngực và vây hậu môn của chúng lùi xa về phía sau. Tuy nhiên cá Rồng châu Á chỉ có 5 hàng vảy mỗi bên thân so với 7 hàng vảy ở cá Rồng châu Úc.
1 Huyết long (Scleropages legendrei)Huyết long (super red) được chia thành hai loại dựa trên màu sắc của chúng, đó là “chili red” và “blood red”. Loại “chili red” có màu đỏ tươi, thân rộng và dày, trong khi “blood red” có màu đỏ sậm, thân dài và mảnh. “Chili red” dày đều từ đầu cho đến đuôi trong khi “blood red” lại thuôn về phía đuôi. Loại “chili red” có nền xanh “green-based”, đầu hình muỗng (spoon head) và đuôi hình thoi trong khi loại “blood red” có màu đỏ sậm, nền đen nâu “dark-based”, đầu hình viên đạn (bullet head) và đuôi hình quạt.
Loại “chili red” có mắt màu đỏ và to, còn loại “blood red” có mắt nhạt màu và nhỏ hơn. Mắt “chili red” lớn đến nỗi có khi viền ngoài của nó “chạm” đến đầu và hàm dưới. Đuôi của “blood red” hình quạt trông đẹp hơn đuôi hình thoi của “chili red”.
Dù có khác biệt, cả hai đều chuyển sang màu đỏ thực thụ khi đến tuổi trưởng thành. “Chili red” lên màu chậm hơn 1-2 năm so với “blood red” nhưng màu tuyệt đẹp với loại vảy bản mỏng “thin frame”. Quá trình lên màu của cả hai tương tự như nhau. Màu cam thường là màu trung gian trước khi cá chuyển sang màu đỏ.
2 Kim long quá bối (crossback golden)Còn được gọi là “kim long Malaysia”, đây là một trong hai giống cá Rồng đẹp và mắc tiền nhất. Chúng có đầu to và thân tương đối ngắn so với các giống cá Rồng châu Á khác. So với kim long hồng vĩ, kim long quá bối có màu vàng sáng hơn và luôn phát triển lên đến hàng vảy thứ năm.
Kim long quá bối được chia thành nhiều loại bao gồm “blue-based”, “purple-based”, “green-base”, “gold-based” và “silver-base” tùy thuộc vào màu sắc ở tâm vảy. Những con có màu xanh đậm và sáng lan rộng trên vảy và nắp mang lớn lên sẽ rất đẹp.
Với loại này, màu xanh ở tâm vảy thường lan rộng làm màu vàng trên viền vẩy hẹp lại (thin-frame). Loại “gold-based” khi còn nhỏ thường có màu vàng nhạt. Loại này trông rất hấp dẫn bởi vì khi trưởng thành toàn thân vàng óng giống như thỏi vàng 24K.
3 Kim long hồng vĩ (Scleropages aureus,HighBack Golden)Loài này còn có tên là “kim long Indonesia”. Loài này có lưng và 1/3 vây lưng (phần chóp) sậm màu, phần vây lưng còn lại, vây đuôi và vây hậu môn màu hanh đỏ hay nâu. Khi còn non, cá có màu hơi ửng vàng nhưng khi trưởng thành, cá có màu vàng sậm.
Giống như kim long quá bối, loài này cũng được chia thành nhiều loại gồm “green-based”, “blue-based” và “gold-based” tùy vào màu sắc ở tâm vảy.
So sánh Kim long hồng vĩ và Cao Lưng hồng vĩ (high back golden).
Thanh long có kích thước tối đa khoảng 60cm, lưng màu xanh sậm, thân màu bạc hay phớt xanh, màng vây màu xanh tím, tia vây màu đỏ nâu. Ở những cá thể trưởng thành, vùng xung quanh mắt chuyển sang màu xanh ngọc. Chúng thường có dạng đầu hình viên đạn.
Thanh Long size nhỏ
Cá rồng châu Úc nhìn chung có vảy nhỏ hơn so với cá rồng châu Á. Mỗi bên thân cá rồng châu Úc có 7 hàng vảy so với 5 hàng vảy ở cá rồng châu Á. Đường bên cá rồng châu Úc có từ 32-35 vẩy so với từ 21-25 vẩy ở cá rồng châu Á. Cặp râu cá rồng châu Úc không chỉa thẳng ra phía trước như cá rồng châu Á mà quặp xuống như râu dê
Kim Long Úc (Scleropages jardinii)Trân châu long (pearl arowana) còn được biết dưới các tên gọi khác như Gulf Saratoga hay Northern Spotted Barramundi. Khi trưởng thành, nắp mang xuất hiện hoa văn vằn vện màu đỏ đồng.
Lưng cá có màu xám phớt xanh hay nâu, thân màu đồng ánh vàng, màu sắc xuất hiện trên viền ngoài của vảy, các chấm trên mặt vảy màu vàng, cam hay đỏ và nằm sát với nhau tạo thành viền xen kẽ. Vây màu đen với những chấm lớn màu vàng cam hay đỏ.
Vây lưng và vây hậu môn bắt đầu từ phần giữa thân và chồng xếp lên vây đuôi, vây ngực và đuôi nhỏ so với thân mình. Tuổi thọ của cá rồng Nam Mỹ có thể lên đến 20 năm.
1 Ngân long (Osteoglossum bicirrhosum)Cá ngân long (silver arowana) có kích thước tối đa 1.2 mét, vảy to, hàm dưới trề, thân hình trông giống như con dao bầu và không nằm trong danh sách các loài cá phải bảo vệ.
Khi còn nhỏ, thân cá thường có những lằn xanh ánh kim và cam, đầu và vây có những đốm đen, viền vây màu hồng. Khi trưởng thành, cá chuyển sang màu ánh bạc. Cá đực có vây hậu môn dài và nhọn hơn cá cái. Ngân long (Osteoglossum bicirrhosum).
Hắc Long khi trưởng thành.
Địa chỉ: 115 Bà Huyện Thanh Quan, P.9, Q.3, TP.HCM
Các Loại Cá Bảy Màu Màu Sắc Khác Nhau
Cá bảy màu là một loại cá cảnh đẹp nuôi trong hồ thủy sinh hoặc trong hồ nông rộng trong sân vườn. Bài trước Cá Cảnh Phong Thủy đã viết một bài khá chi tiết về cách nuôi cá bảy màu không bị chết, bài viết này chủ yếu chỉ tập trung vào các loại cá bảy màu đẹp hiện nay và những thông tin khoa học cũng như thông số chi tiết nước nuôi cá bảy màu.
Sơ lược về loài cá bảy màuCá bảy màu có tên khoa học Poecilia reticulata, tên tiếng Anh Guppy, tên tiếng Việt cá bảy màu hay cá khổng tước hiện nhân giống phổ biến tại nội địa của Việt Nam
Cá bảy màu thuộc bộ cá sóc Cyprinodontiformes, họ cá khổng tước Poeciliidae phân bố ở Nam Mỹ (Venezuela, Barbados, Trinidad, Braxin và Guyan).
Cá bảy màu rất khỏe được đánh giá là một trong những loài cá cảnh dễ nuôi cho người mới, cá thích ứng rộng các điều kiện môi trường và nguồn nước từ ngọt đến lợ, tuy nhiên cá sống khỏe và lên màu đẹp trong môi trường nước lợ với độ mặn 5 – 7‰.
Cá bảy màu thích hợp nuôi trong bể trồng nhiều cây thủy sinh với một ít thực vật nổi làm nơi trú ẩn cho cá con. Thả nhóm từ 6 con trở lên, nuôi riêng cá đực hoặc thả cá cái nhiều hơn cá đực vì cá đực thường liên tục đuổi ép cá cái. Cá cũng thích hợp trong bể nuôi chung.
Khi trưởng thành cá bảy màu có thể đạt chiều dài 6 cm, cá ăn tạp từ cung quăng, mùn bã hữu cơ, trùng chỉ, thức ăn viên. Cá mái trưởng thành đẻ con, mắn đẻ và dễ sinh sản.
Thông số bể nuôi cá bảy màu
Nhiệt độ nước (C): 18 – 28.
Độ cứng nước (dH): 10 – 30.
Độ pH: 7,0 – 8,5
Yêu cầu ánh sáng: Vừa
Yêu cầu lọc nước/ sục khí: Ít
Các loại cá bảy màuNgày nay, cá bảy màu được lai tạo ra rất nhiều chủng loại mới, chúng được phân theo các nhóm chính, trong mỗi nhóm đều có nhiều loại cá có nhiều hình dạng và màu sắc khác nhau rất đẹp.
Cá bảy màu AlbinoAlbino là loại cá bảy màu có màu trắng chủ đạo, phân thành các chủng loại nhỏ từ trắng đến trắng đỏ trắng hồng, trắng xanh, có kỳ dài, kỳ ngắn,…
Cá bảy màu đen black Cá bảy màu Starlet swallowCập nhật thông tin chi tiết về Sự Đa Dạng Trong Màu Sắc Cá Ranchu trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!