Bạn đang xem bài viết Nuôi Cá Chình Hoa Bằng Thức Ăn Công Nghiệp – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng được quy trình sản xuất thức ăn cho cá chình, sử dụng dây chuyền có công suất 500 kg/giờ, sản lượng 800 tấn/năm, giá thành rẻ hơn so với thức ăn nhập khẩu của Trung Quốc từ 18 – 25%. Hiện dây chuyền này đã sản xuất được trên 5 tấn thức ăn cho cá chình giống và trên 30 tấn thức ăn cho cá chình nuôi thương phẩm. Đề tài được Hội đồng nghiệm thu đánh giá cao. Trong tương lai, dự án sẽ được triển khai với quy mô thương mại để cung cấp sản phẩm ra thị trường.
Dây chuyền sản xuất thức ăn cho cá chình – Ảnh: Hồng Quang
Thạc sỹ Hoàng Văn Duật cho biết hiện nhóm nghiên cứu đang tập trung triển khai dự án thức ăn cho cá chình. Dự án này dựa vào đề tài sản xuất thức ăn cho cá chình từ enzim và một số nguyên liệu của Việt Nam. Đề tài do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng 3 chủ trì và nhóm triển khai thực hiện từ năm 2012 – 2014 đã thành công. Hiện nay dự án đang triển khai tiếp tục. Cùng với sự phối hợp với Công ty TNHH Nuôi trồng Vạn Xuân, nhóm sản xuất được thức ăn bột mịn cho cá chình, bước đầu thấy thức ăn tương đương nhập từ Trung Quốc, cá bắt mồi tốt.
Trong quá trình thực hiện đề tài, Thạc sĩ Hoàng Văn Duật và nhóm cộng sự đã phối hợp với Công ty TNHH Nuôi trồng thủy sản Vạn Xuân kết hợp lồng ghép các nội dung nghiên cứu khoa học với các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhờ đó tiết kiệm được nhân lực, tăng tính khả thi. Trang trại gồm hệ thống trại ương cá chình giống trong nhà, hệ thống ao nuôi cá chình thương phẩm có mái che, gần 20 ao nuôi cá chình trên diện tích 5ha, đảm bảo cung cấp cá chình giống và thương phẩm đạt tiêu chuẩn. Năm 2014, công ty cung cấp ra thị trường khoảng 700.000 con giống với doanh thu đạt 15 tỷ đồng. Riêng cá chình thương phẩm thu hoạch khoảng 30 tấn, lợi nhuận hơn 5 tỷ đồng.
Bà Trần Thị Tuyết – Giám đốc Công ty TNHH Nuôi trồng thủy sản Vạn Xuân cho biết trong quá trình thực hiện phối hợp thức ăn cho kết quả khả quan, năm vừa rồi Công ty đầu tư dây chuyền sản xuất nhỏ thì lượng thức ăn cá bắt mồi rất tốt, so với nhập ngoại thì thức ăn sản xuất ra không thua kém. Sắp tới Công ty sẽ tiếp tục phối hợp với Viện để đưa công nghệ này phát triển.
Với những kết quả đem lại của đề tài, nhiều chuyên gia, nhà quản lý đánh giá triển vọng của nghề nuôi cá chình rất lớn, đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu sắc hơn nữa. Việc hoàn thiện và đưa ra quy trình nuôi phù hợp, nhất là sử dụng thức ăn công nghiệp vào nuôi cá chình sẽ giúp nghề nuôi phát triển bền vững trong thời gian tới. Hiện thạc sĩ Hoàng Văn Duật và nhóm cộng sự đã từng bước hoàn thiện quy trình nuôi cá chình giống và thương phẩm.
Khấm Khá Nhờ Nuôi Cá Lóc Bằng Thức Ăn Up – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Tận dụng lợi thế
Là đối tượng nuôi có nhiều lợi thế do thích nghi với đa dạng địa hình, dễ nuôi, ít dịch bệnh. Những năm trở lại đây, nhiều tỉnh, thành tại khu vực ĐBSCL đã phát triển mô hình nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp.
Tại Cần Thơ, thời gian qua, con cá lóc được nông dân tại nhiều quận, huyện của thành phố nuôi theo các mô hình nuôi ao, hầm, nuôi vèo đặt trong ao, vèo đặt trên sông… Tuy nhiên, người dân chủ yếu sử dụng các loại cá tạp tươi sống để làm mồi nuôi cá lóc, nên việc phát triển mô hình gặp khó khăn do nguồn thức ăn thường bị thiếu hụt và không ổn định về chất lượng. Chính vì vậy, các mô hình nuôi cá lóc, nhất là nuôi cá lóc trong vèo chỉ được nông dân phát triển mạnh vào mùa lũ – thời điểm mà nguồn cá tạp trong tự nhiên dồi dào nhất trong năm. Song, việc khai thác đánh bắt quá mức các loại thủy sản trong tự nhiên thời gian qua khiến lượng cá tạp mùa lũ giảm dần, nguồn cung hạn chế, giá bán cao, lợi nhuận của người nuôi cá cũng giảm theo. Chính vì vậy, việc chuyển đổi sang thức ăn công nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nuôi. Bởi, chủ động được nguồn thức ăn và tiết kiệm được thời gian, chi phí, giảm tác động đến môi trường, lợi nhuận không thua gì so với cách nuôi cá lóc bằng thức ăn truyền thống.
Năm 2014, Sở Khoa học và Công nghệ Bạc Liêu chuyển giao cho Trung tâm Thực nghiệm và chuyển giao khoa học công nghệ huyện Phước Long đề tài Thử nghiệm mô hình nuôi cá lóc đầu nhím trong ao đất sử dụng thức ăn công nghiệp. Bà Nguyễn Thị Kim Hồng, Giám đốc Trung tâm cho biết, qua kết quả triển khai thực hiện thử nghiệm đề tài cho thấy, mô hình nuôi cá lóc đầu nhím trong ao đất sử dụng thức ăn công nghiệp cho hiệu quả khả quan và có khả năng nhân rộng. Chính vì vậy, mô hình đã được phát triển tại nhiều tỉnh, thành ở khu vực ĐBSCL như Đồng Tháp, Trà Vinh, An Giang, Cần Thơ…
Hiệu quả cao
Nhiều năm liền, ông Trần Văn Hướng nuôi cá đều thành công nhờ sử dụng thức ăn cá lóc nhãn hiện UP Ảnh: Nguyên Chi
Từ lâu, thị xã Hồng Ngự được xem là cái nôi của nghề nuôi cá tra ở Đồng Tháp; được thiên nhiên ưu đãi nên nhiều cư dân nơi đây phất lên nhờ gắn bó với loài cá đặc biệt ở vùng sông Mê Kông này. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây nghề nuôi cá tra bước vào giai đoạn cạnh tranh và đào thải khốc liệt, các nhà nhập khẩu lớn như: Mỹ, EU… ngày càng xiết chặt hàng rào thuế quan đối với cá tra xuất khẩu của Việt Nam, nông dân nuôi cá tra lâm vào tình cảnh khốn khó. Trước khó khăn đó, người dân đã tìm ra hướng đi mới với con cá lóc bởi giá trị kinh tế mà đối tượng này mang lại. Còn tại Trà Vinh, đối với riêng huyện Trà Cú, năm 2016, toàn huyện có 1.607 hộ thả nuôi với hơn 96 triệu con giống, trên tổng diện tích gần 229 ha, tăng gần 25 ha so với năm trước. Phong trào nuôi cá lóc phát triển nhanh đã giúp nhiều hộ nông dân cải thiện kinh tế, tăng thu nhập. Nghề nuôi cá lóc ở Trà Vinh cũng đã từng bước tạo thương hiệu trên thị trường, sản phẩm được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; mặc dù có những giai đoạn cá lóc nuôi gặp khó do giá giảm, nhưng do được đầu tư bài bản nghiêm ngặt, nên hầu hết các hộ nuôi đều duy trì được sản xuất.
Hồng Ngự không những là thủ phủ sản xuất cá tra giống tại Đồng Tháp mà còn là vùng trọng điểm phát triển diện tích nuôi cá lóc khu vực ĐBSCL; nghề nuôi cá lóc đã giúp bà con nơi đây ổn định kinh tế, gia tăng sản xuất, nhiều hộ nuôi đã chuyển diện tích nuôi cá tra sang nuôi cá lóc cho thu nhập khá. Theo thống kê, toàn huyện Hồng Ngự có khoảng gần 200 ha nuôi cá lóc, sản lượng khoảng 12.000 tấn.
Là hộ nuôi có nhiều kinh nghiệm, ông Trần Văn Hướng, ngụ tại ấp An Thịnh, xã An Bình A, thị xã Hồng Ngự, Đồng Tháp với khoảng 5 ha gồm 9 ao nuôi cá lóc từ lâu đã trở thành địa điểm tham quan, học hỏi kinh nghiệm của người nuôi trong và ngoài tỉnh.
Ông Hướng bắt đầu nuôi cá lóc từ năm 2013 với 5 ha dưới hình thức nuôi ao đất, mật độ thả nuôi 60 – 80 con/m2, thả xen kẽ giữa các ao, nuôi 2 vụ mỗi năm, thời gian nuôi 4 – 6 tháng. Năm 2017, sản lượng thu đạt 50 – 70 tấn/ao, đạt khoảng 400 tấn cá/vụ, với giá bán 30.000 – 31.000 đồng/kg, thu khoảng hơn 1 tỷ đồng.
Theo ông Hướng, để đầu tư một ao nuôi cá lóc có diện tích khoảng 1 ha nông dân phải tốn ít nhất khoảng 150 triệu đồng chi phí xây dựng cơ bản bao gồm: chi phí đào ao, đặt đường ống bơm thoát nước, khoan giếng. Khoảng 60 triệu đồng cho chi phí con giống, cuối cùng là chi phí thức ăn và thuốc phòng trị bệnh khoảng 600 triệu đồng.
Sau khoảng 4 – 6 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng bình quân khoảng 800 g đến 1 kg/con là có thể thu hoạch. Cá lóc có tỷ lệ sống cao, trung bình đạt khoảng 80%, đối với thức ăn công nghiệp, hệ số chuyển đổi thức ăn FCR khoảng 1 – 1.3 kg thức ăn/kg cá tùy thuộc vào loại thức ăn và kỹ thuật của người nuôi.
Chia sẻ kinh nghiệm
Ông Hướng cho biết, diện tích ao sử dụng nuôi khoảng 1.000 m2, ao hình chữ nhật để tiện việc chăm sóc quản lý và thu hoạch. Bờ ao phải vững chắc tránh bị sạt lở và không bị ngập nước vào mùa lũ. Cá giống chọn đều cỡ, không bị dị tật, bóng mượt, không xây xát; nên thả nuôi với mật độ vừa phải để dễ quản lý, hạn chế dịch bệnh xảy ra. Nếu không gian chật hẹp, cá sẽ chậm lớn và hao đầu con ảnh hưởng đến chi phí nuôi cũng như hệ số tiêu tốn thức ăn sẽ tăng cao. Mật độ thả nuôi 30 – 100 con/m2 (thích hợp 40 – 60 con/m2). Độ sâu ao nuôi lớn hơn 2 m, một số hộ nuôi có thể có thể tận dụng ao nuôi cá tra để nuôi nên độ sâu có thể lên đến 3,5 – 5 m. Trên bờ, ông Hướng còn trồng cây ăn quả, vừa tạo bóng mát vừa tạo cảnh quan đẹp, giúp môi trường trong lành hơn, cùng đó, ông đầu tư hệ thống cấp thoát nước vào tận ao nuôi, thực hiện thay nước thường xuyên, giúp môi trường nuôi sạch để cá tăng trưởng và phát triển tốt. Theo ông Hướng, yếu tố quan trọng mang lại thành công đó chính là con giống, kỹ thuật chăm sóc và yếu tố không thể thiếu là chất lượng thức ăn. Bởi, thức ăn chiếm một phần không nhỏ trong chi phí vụ nuôi, nếu người nuôi lựa chọn được thức ăn có chất lượng tốt sẽ giảm được chi phí, góp phần tăng lợi nhuận và hiệu quả sản xuất.
Hiện nay đã có thức ăn dành cho cá lóc nhằm cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho từng giai đoạn phát triển của cá. Ở giai đoạn cá nhỏ có thể sử dụng sàng ăn để tập cho cá ăn nhằm kiểm soát thức ăn. Chia thức ăn ra nhiều lần, giúp cá ăn nhanh và triệt để hơn.
Trên thị trường có nhiều sản phẩm thức ăn dành cho cá lóc, nhưng ông Hướng luôn tin dùng và đánh giá cao về chất lượng các dòng sản phẩm thức ăn cá lóc của Công ty TNHH Uni-President Việt Nam. Ông Hướng nhận định, thức ăn cá lóc của Công ty Uni-President Việt Nam ít bụi, độ tan chậm, giúp cá tăng trọng nhanh, thịt cá thơm ngon, săn chắc, ít hao hụt trong quá trình vận chuyển. Ngoài ra, khi bà con sử dụng thức ăn của Uni, còn được các kỹ thuật viên của Công ty tận tình hướng dẫn về kỹ thuật nuôi cũng như thường xuyên theo dõi để hỗ trợ và giải đáp thắc mắc của người nuôi.
Đặc Sản, Dễ Nuôi – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Cá hô – đối tượng thủy sản có giá trị cao Ảnh: PTC
Đặc điểm sinh học
Cá hô thuộc họ cá chép Cyprinidae và có tên khoa học là Catlocarpio siamensis. Phần trước thân của cá hơi tròn và cao, phần sau dẹp bên; Cao thân khoảng 1/3 dài chuẩn; Đầu rất to, đỉnh đầu rộng, giữa mắt và mõm của phần lưng đầu lõm xuống; cá không có râu, khe mang rộng, thân phủ vảy tròn to; Đầu và lưng có màu nâu xám hoặc ánh xanh, nhạt dần xuống bụng trắng bạc; Mắt cá to, vảy to, vây lưng cao, gốc vây lưng, vây hậu môn có phủ vảy nhỏ. Bụng màu trắng bạc, các vây hơi phớt hồng, cuối các tia vây màu đen. Cá hô thường sinh sống ở những hố lớn cạnh bờ những dòng sông lớn, nhưng chúng cũng có thể bơi vào những kênh, rạch, sông nhỏ để kiếm thức ăn trong một số thời điểm. Chúng phân bố chủ yếu tại Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam (phân bố ở Châu Đốc, sông Mê Kông). Người ta đã bắt được cá hô dài tới 3 m, nặng khoảng 300 kg; ở Việt Nam thỉnh thoảng đánh bắt được cá hô loại 100 – 200 kg. Cá hô là loài ăn tạp, thức ăn của chúng có thể là thực vật phiêu sinh, rong, trái của thực vật trên cạn, thực vật thủy sinh và các động vật không xương sống thủy sinh…
Cho lãi lớn
Cá hô tuy là loài quý hiếm, trước đây cá chủ yếu là đánh bắt nhưng thời gian gần đây người dân ở miền Tây đã nuôi rất thành công giống cá này trong ao. Cá có thể trọng lớn, thịt thơm ngon, vị ngọt và dai nên rất được ưu chuộng trên thị trường và được các nhà hàng lớn thu mua. Cá hô đạt 4 – 6 kg/con trên thị trường có giá khoảng 80.000 – 120.000 đồng/kg, tuy nhiên có thể lên đến 1 – 2 triệu đồng/kg đối với cá 30 kg trở lên. Từ năm 2005, nước ta đã cho sinh sản nhân tạo thành công loài cá quý này tại Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II, tiếp đến Trung tâm Giống thủy sản An Giang cũng đã sản xuất nhân tạo thành công giống cá này. Nhờ chủ động được nguồn giống nên nghề nuôi cá hô phát triển mạnh ở nhiều địa phương của nước ta như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang…
Cá hô có thể nuôi đơn trong ao, lồng bè, đăng quầng. Với tốc độ tăng trọng 2 – 3 kg/năm, chúng có thể được nuôi đơn trong ao hoặc lồng bè với mật độ 3 – 4 con/m2; ngoài ra, còn có thể thả ghép với các loài cá nước ngọt khác, với mật độ 10 m2/con, để tận dụng thức ăn. Ở miền Nam, cá hô có thể thả nuôi quanh năm do khí hậu ấm áp, cá phát triển tốt. Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, việc đưa cá hô vào nuôi không những mang lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần bảo tồn tài nguyên quốc gia.
Loài Nuôi Mới – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Đặc điểm sinh học
Chày mắt đỏ sống hoang dã ngoài tự nhiên, tại các thủy vực nước chảy: sông, suối và hồ chứa từ Trung Quốc đến phía Bắc Việt Nam. Ở nước ta, cá thường sống ở tầng nước giữa và tầng mặt, phân bố trong các sông hồ từ Bắc vào Nam, được người dân vớt giống tự nhiên và nuôi trong các ao, đìa…
Thân cá dày, tương đối tròn, vẩy phủ đều toàn thân, thân và bụng có màu trắng và vàng nhạt, viền mắt màu đỏ tươi. Cá có tính ăn tạp, thiên về thực vật, mùn bã hữu cơ và có khả năng tăng trưởng trọng lượng tối đa 4 kg sau 4 năm. Ngoài tự nhiên, cá thành thục và tham gia sinh sản sau một năm tuổi, kích cỡ từ 0,2 kg trở lên. Vào mùa sinh sản (tháng 4 – 6), cá ngược dòng lên thượng lưu các con sông, suối để tham gia sinh sản và đẻ trứng trôi nổi như các loài khác (cá mè, trôi, trắm…). Trứng cá sau khi thụ tinh, theo nước xuôi xuống hạ lưu, nở ra cá bột, dạt vào kênh mương, ao hồ; Cá sử dụng thức ăn là động, thực vật phù du, ấu trùng côn trùng, giun chỉ… Khi lớn ăn thêm mùn bã hữu cơ, rong bèo, rau xanh…
Tình hình nuôi
Trong tự nhiên, chày mắt đỏ được xếp vào hạng cá ngon, đặc sản, trong bữa cơm gia đình được ưu tiên cho người già và trẻ em. Hiện nay trên thị trường vẫn đang hiếm loài cá này, do vậy nuôi cá chày mắt đỏ thương phẩm vẫn có tiềm năng lớn. Năm 2008, cá chày mắt đỏ đã được sinh sản nhân tạo thành công tại Trung tâm Tư vấn Thiết kế và Chuyển giao công nghệ thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I (tỉnh Bắc Ninh). Việc sản xuất giống nhân tạo thành công loài cá này vừa đáp ứng được nhu cầu con giống cho người nuôi vừa góp phần tái tạo nguồn lợi thủy sản. Đến nay, giống cá này đã được nhân rộng ra nhiều tỉnh phía Bắc.
Chày mắt đỏ nuôi đơn hoặc nuôi ghép với các loài cá khác trong ao đều mang lại hiệu quả. Nếu nuôi đơn cá trong ao đất với mật độ 2 con/m2 sử dụng thức ăn công nghiệp, sau 6 tháng nuôi, tỷ lệ sống đạt 80%, cỡ cá trung bình 0,7 kg/con, hệ số thức ăn 2,5; năng suất ước đạt 8 – 10 tấn/ha. Với giá bán 35.000 đồng/kg, trừ chi phí sẽ mang lại lợi nhuận 90 – 120 triệu đồng/ha. Ngoài ra, cá còn có thể thả ghép trong ao cùng các loài khác (mè, trôi, trắm, chép, rô phi…) với tỷ lệ thả ghép chiếm 40 – 50% tổng lượng cá trong ao, sau một năm nuôi, cá đạt trọng lượng 0,8 – 0,9 kg/con và tỷ lệ sống đạt trên 80%.
Hiện, nguồn giống cá được bán nhiều ở các đại lý và cơ sở sản xuất giống tại miền Bắc, với giá 300 – 500 đồng/con (cỡ 6 – 8 cm).
Địa chỉ cung cấp giống:
1.Trung tâm Tư vấn Thiết kế và Chuyển giao công nghệ thủy sản, Viện Nghiên cứu NTTS I, tỉnh Bắc Ninh. Ông Đặng. Điện thoại: 0904 113 037
2. Trung tâm Phát triển công nghệ thủy sản Việt Nam, số 180 Tân Lập, P. Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Ông Lương. Điện thoại: 0913 528 826
Cập nhật thông tin chi tiết về Nuôi Cá Chình Hoa Bằng Thức Ăn Công Nghiệp – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!