Xu Hướng 6/2023 # Nghề Nuôi Cá Cảnh Ở Xóm Kim, Xã Mỹ Thắng # Top 8 View | Psc.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Nghề Nuôi Cá Cảnh Ở Xóm Kim, Xã Mỹ Thắng # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Nghề Nuôi Cá Cảnh Ở Xóm Kim, Xã Mỹ Thắng được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nghề nuôi cá cảnh ở xóm Kim, xã Mỹ Thắng

Một chiều hè, chúng tôi có dịp thăm khu nuôi thủy sản xóm Kim, xã Mỹ Thắng (Mỹ Lộc), “ngắm” những ao nuôi vuông vắn, rộng rãi được quy hoạch liền kề nhau. Đến giờ cho cá ăn, dưới mỗi ao, hàng vạn cá cảnh, cá thịt “ngửi” thấy mùi cám chen chúc tìm thức ăn. Nguồn lợi thu nhập của trên dưới 40 hộ dân xóm Kim nằm ở đây. Con cá cảnh, vì vậy đang tạo ra sinh kế bền vững cho người dân nơi này.

Nếu như cách đây khoảng 5 năm trở về trước, thú chơi cá cảnh của người dân chỉ chủ yếu nhắm vào các “đại gia”, bởi những loại cá bày bán trên thị trường thường có giá khá đắt lên đến hàng triệu đồng, thì hiện nay, cá cảnh đã trở nên bình dân, gần gũi với người dân hơn. Có thể thấy ở mỗi lứa tuổi, người ta tìm cho riêng mình một loại cá để chơi. Qua đó, thể hiện được tính cách cũng như điều kiện của người chơi cá. Các em nhỏ có thể tự sắm cho mình một bể cá nhỏ, tầng lớp trung lưu thì trang trí cho ngôi nhà của mình một bể trồng thủy sinh. Người có thu nhập cao hơn thì chơi bể nước mặn như đại dương thu nhỏ trong nhà… Nắm bắt được nhu cầu đó, từ khoảng 5-7 năm nay, người dân xóm Kim tập trung phát triển nghề nuôi cá cảnh. Các loại cá mà họ hay nuôi là chép cảnh, tam dương ngũ sắc, cá vàng bốn đuôi… 1 đến 2 năm trở lại đây, một số hộ gia đình mạnh dạn đầu tư nuôi thêm một số cá cảnh khác, có giá trị kinh tế cao hơn như cá Koi, cá rồng. Nhưng chủ yếu, ao nuôi của người dân xóm Kim đa số vẫn là các loài chép cảnh, cá vàng bốn đuôi. Một số gia đình thả thêm cá thịt như cá trắm cỏ, cá trắm đen… Để nuôi được các giống cá cảnh cũng đòi hỏi lắm công phu. Đối với các loại cá cảnh như cá tam dương ngũ sắc, cá chép cảnh, hộ nuôi có thể tự nhân giống bằng cách bán cho nhau. Riêng đối với cá vàng bốn đuôi, phải mua giống từ Hải Phòng. Cá cảnh nói chung sau khi đẻ trứng 3, 4 ngày thì thành cá con. Lúc này thức ăn của cá là trứng luộc nghiền nát hòa với nước té xuống hồ cho cá ăn. Giai đoạn tiếp theo người nuôi cá nghiền bột gạo nấu loãng pha thêm nước thành thức ăn cho cá. Cá được 1 tuần tuổi thì lấy cám vịt, cám lợn ngâm cho nở hòa với nước làm mồi cho cá. Khi cá được 20 ngày tuổi trở lên thì mua cám hạt to khoảng 1 li làm thức ăn cho cá. Giống cá cảnh, theo những người nuôi ở đây cũng ít khi bị mắc bệnh, có sức chịu đựng, chống chọi với mùa đông rất tốt. Tuy nhiên vào dịp cuối năm do cá ít vận động nên thường bị mắc một số chứng bệnh như thối mang cá. Khi đó, người nuôi phải sục nước trong ao, té nước vôi loãng và cho cá ăn thuốc tỏi “Tiên đắc” để phòng thối mang cá. Khi cá gần đẻ thì phải tách các đôi cá bố mẹ riêng để chủ động việc phối giống cho cá. Đối với loài chép cảnh, người nuôi kỳ công hơn, phải bắt từng cặp bố mẹ lên để tiêm thuốc kích thích cho cá đẻ đồng loạt. Người nuôi cá xóm Kim gọi thời kỳ cá đẻ là “vật cá”. Tháng 2, tháng 3 chính là thời điểm cá cảnh đẻ rộ.

Ông Trần Văn Mạnh chăm sóc cá cảnh trong ao nuôi của gia đình.

Ông Trần Văn Mạnh, tham gia phong trào nuôi cá cảnh của xóm từ những ngày đầu. Hiện ông có 1,5 mẫu ao được chia thành 4 ao nhỏ. Với diện tích như vậy, ông Mạnh chỉ thuộc “hàng trung” nuôi cá của xóm. Ao nuôi của gia đình ông hiện có 1,5 vạn cá cảnh với 2 loại chính là cá chép cảnh và tam dương ngũ sắc. Ngoài ra, ông cũng nuôi thêm một số cá thịt như trắm đen. Cũng như các hộ gia đình nuôi cá khác trong xóm, gia đình ông Mạnh lúc nào cũng có cá bán quanh năm. Ông Mạnh cho biết: “Giá các loại chép cảnh hiện nay là 70-75 nghìn đồng/cân. Cá tam dương ngũ sắc có giá từ 80-90 nghìn đồng/cân. Cá Koi có giá 150-250 nghìn đồng/cân. Cá vàng bốn đuôi giá 15-20 nghìn đồng/đôi đối với loại nhỏ. Loại to đạt 80-90 nghìn đồng/đôi. Dịp cuối năm, nhất là vào mùa Tết ông Công, ông Táo giá các loại cá cảnh có thể nhích lên do nhu cầu của người dân vào dịp này tăng mạnh”. Vụ cá năm 2012, sau khi trừ mọi chi phí, ông thu về 50-70 triệu đồng. 6 tháng đầu năm 2013, do giá cả các loại cá đều giảm, ông cho biết có thể năm nay gia đình có mức thu nhập thấp hơn so với năm ngoái một chút.

Đến gia đình ông Trần Văn Hiền, chúng tôi gặp con trai lớn của ông là Trần Văn Ngọc. Anh Ngọc tham gia nuôi cá cùng với bố cũng đã được hơn 1 năm nay. Gia đình anh hiện có trên 6 mẫu ao nuôi cá với tổng diện tích hơn 20 nghìn m2 mặt nước, 2-3 tấn cá trắm đen, 3-4 tấn cá chép cảnh. Gia đình anh Ngọc cũng là người có diện tích nuôi thả cá nhiều nhất xóm Kim. Anh Ngọc cho biết, cho đến thời điểm hiện tại, gia đình đã “đổ” xuống ao gần 1 tỷ đồng để xây dựng 10 ao nuôi. Toàn bộ hệ thống ao nuôi của gia đình đều có hệ thống cống bơm tiêu nước liên thông, khép kín, xung quanh ao và đáy được bê tông hóa. Gia đình anh dành 3 ao để ươm cá trắm đen giống, 7 ao còn lại nuôi cá vàng, cá chép đuôi dài, cá chép vàng In-đô-nê-xi-a… Ngoài ra, nhận thấy nhu cầu chơi cá rồng trên thị trường trong mấy năm trở lại đây tăng lên, gia đình anh mạnh dạn đầu tư thêm vốn, tìm hiểu kỹ thuật nuôi. Năm 2012, gia đình anh đầu tư 50 triệu đồng mua 100 đôi cá rồng về thả nuôi. Giống cá này không nuôi đại trà ngoài ao mà phải nuôi trong bể kính, thức ăn hằng ngày là cá con và tép. Cũng như các loại cá cảnh khác, người nuôi cá rồng nuôi trong khoảng thời gian 6 tháng thì xuất bán. Theo anh Ngọc, một đôi cá rồng sau 6 tháng nuôi có giá bán vào khoảng 900 nghìn – 1 triệu đồng/đôi cho lái buôn. Mỗi lần bán, nhà anh xuất khoảng 10 đôi. Có khoảng 10 hộ gia đình nuôi cá rồng trong xóm. Tuy nhiên, người nuôi cá rồng cũng phải đối mặt với nhiều loại bệnh tật như thối mang, cụt râu, mù mắt… đòi hỏi phải có kinh nghiệm và tốn công chăm sóc. Năm 2012, gia đình anh Ngọc xuất bán hơn 2 tấn cá trắm đen giống và gần 8 tấn cá cảnh các loại, lãi trên 300 triệu đồng.

Có thể thấy, nghề nuôi cá cảnh đang góp phần giúp nhiều hộ dân xóm  Kim ổn định cuộc sống, vươn lên làm giàu chính đáng. Những người nuôi trung bình như gia đình ông Mạnh đến những người nuôi lớn như gia đình anh Ngọc đều thu được lợi nhuận “kha khá” sau mỗi vụ cá. Từ nguồn thu nhập này, giúp họ có vốn để đầu tư cơ sở vật chất cho các ao nuôi, đầu tư giống cá mới và nhất là ổn định cuộc sống. Nghề nuôi cá cảnh đòi hỏi công chăm sóc nhiều hơn nuôi các loại cá thịt. Tuy nhiên, theo các hộ nuôi cá ở đây, người nuôi chỉ tốn công sức hơn vào giai đoạn cá bố mẹ chuẩn bị phối giống và cá con mới đẻ. Còn lại thì việc nuôi, chăm sóc cũng không quá khắt khe. Hơn nữa, lại có thể tận dụng được nguồn lao động trong thời gian rỗi rãi, hầu như già trẻ đều có thể tham gia nuôi cá được. Tuy nhiên, hai năm trở lại đây, cũng theo người dân xóm Kim, do kinh tế khó khăn, người chơi cá cảnh cũng hạn chế, dẫn đến giá các loại cá bán ra thấp, ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lý người nuôi. Hơn nữa, theo quan sát của chúng tôi, không phải ao nuôi nào của các hộ dân cũng được đầu tư kỹ càng hệ thống cống bơm tiêu nước liên thông, dẫn đến nguồn nước trong một số ao bị ô nhiễm, gây mầm bệnh, ảnh hưởng đến chất lượng cá. Để có thể “trụ” với nghề, người nuôi cá cảnh xóm Kim ngoài việc đầu tư thêm cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ao nuôi cần tích cực học hỏi kinh nghiệm, kiến thức khoa học kỹ thuật qua các phương tiện thông tin đại chúng, học từ những người có thâm niên… để chăm sóc cá tốt hơn. Ngoài ra, để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của dân chơi cá cảnh, nên chăng, người nuôi cá ở đây phải tự sáng tạo, lai tạo những giống cá đẹp, độc đáo mang thương hiệu riêng. Bởi theo các nghệ nhân cá cảnh: “Cá cảnh được ưa chuộng không phải được tính bằng trọng lượng, kích thước mà chúng được tính bằng vẻ đẹp hoàn mỹ thông qua màu sắc, hình dáng”./.

Bài và ảnh: Hoa Xuân

Nghề Nuôi Cá Cảnh Ở Mỹ Trung

Theo anh Trần Trọng Đồng, thôn Đệ Nhị, xã Mỹ Trung (Mỹ Lộc), nghề nuôi cá cảnh ở địa phương có từ khá lâu. Bản thân anh theo nghề đến nay cũng đã được vài chục năm. Gắn bó với nghề nuôi cá cảnh, anh Đồng nói, cũng có nhiều buồn vui, tích lũy được vô số kinh nghiệm. Quan trọng hơn cả, ngoài giá trị kinh tế cao, lúc nông nhàn, ngồi ngắm những đàn cá đủ màu sắc thi nhau bơi lượn, người nuôi cá cảm thấy vui vẻ, thư thái sau những giờ lao động căng thẳng, mệt nhọc.

Anh Trần Trọng Đồng, thôn Đệ Nhị, xã Mỹ Trung kiểm tra quá trình sinh trưởng của cá cảnh.

Đường vào xã Mỹ Trung mùa này 2 bên vệ đường xanh mướt bởi những giàn mướp soi bóng xuống khu đầm bãi, ao hồ mênh mông. Làng xóm được ấp ôm bởi những dãy ao ngăn ô gọn gàng, trong mát. Cái nắng nóng đầu mùa oi ả, vì thế cũng được hạ nhiệt đi ít nhiều. Là một trong những người đầu tiên của xã chơi cá cảnh, biết mang con cá đi “giao thương”, anh Đồng được giới chơi cá cảnh xa gần trong huyện biết đến. Trước năm 1998, trong một lần đến nhà người quen ở Thành phố Nam Định chơi, “Thấy họ nuôi cá cảnh trong bể đẹp quá, tôi thích lắm. Tôi lân la hỏi han cách nuôi, giống cá, giá cả… Cũng tình cờ thời gian đó tôi có dịp ra Hà Nội, ngang qua vài cửa hàng bán cá cảnh, tôi mạnh dạn vào hỏi mua, bắt mối buôn bán. Sau này, cũng chính những cửa hàng bán cá cảnh ở Hà Nội là mối hàng đầu tiên của tôi”, anh Đồng chia sẻ về mối “duyên” với nghề. Nhận thấy, nuôi cá cảnh rất phù hợp với đồng đất quê nhà, sẵn ao, anh bắt tay ngay vào nuôi cá. Những năm đầu tiên, anh chọn giống cá vàng, sư tử, cá chép Nhật để nuôi. Một vài năm thấy hiệu quả kinh tế, anh động viên anh em, người thân quen nuôi. Anh sẵn sàng đầu tư cá giống cho những hộ trong làng, ngoài xã muốn nuôi cá cảnh. Anh còn tìm thêm mối để giúp bà con nuôi cá xuất bán, được giá, yên tâm về đầu ra. Hiện, anh Đồng có trên 1 mẫu ao, chia thành nhiều ao nuôi. Các loại cá mà anh nuôi gồm: chép Tầu, chép ta, cá Koi, cá sư tử, cá vàng… Khác với nhiều hộ nuôi cá cảnh khác, anh Đồng xây dựng ao nuôi theo mô hình khép kín: tự sản xuất con giống, nuôi cá thương phẩm bán ra thị trường. Ngoài ra anh còn là đầu mối cung cấp giống, thu mua cá thương phẩm cho các hộ nuôi cá cảnh trong làng. Nuôi các loại cá cảnh lâu năm, công đoạn khó nhất theo anh Đồng là việc sản xuất, chọn giống. Theo đó, người nuôi phải có kinh nghiệm, con mắt “nhìn cá” để chọn được những cặp cá giống tốt nhất. Những người nuôi cá có kinh nghiệm thường chọn các cặp cá đạt kích thước từ 3-4cm, cân đối đầu, đuôi, không bị dị tật, màu đẹp… làm giống. Khi đã chọn được, người nuôi chuyển con giống sang các ao nuôi riêng để có chế độ chăm sóc, phòng bệnh phù hợp. Một số bệnh mà cá cảnh hay mắc là thối mang, xuất huyết, cùn vây… Với mỗi loại, anh Đồng lại có cách phòng bệnh, thuốc chữa trị riêng, tránh lây lan, ảnh hưởng đến đàn. Các loại cá chép cảnh có thể sinh sản quanh năm nhưng mạnh nhất là vào các mùa xuân, hè và thu. Tháng 5, khi những cơn mưa rào đầu tiên xuất hiện, giống cá chép Nhật, chép Koi vào vụ sinh sản mới, đó cũng là những ngày bận rộn của gia đình anh. Thời điểm này đặc biệt quan trọng, do đó anh rất chú ý đến việc cho ăn, đảm bảo nước, oxi cho cá sinh trưởng và phát triển. Tùy theo tình hình thời tiết mà người nuôi tính toán cho cá ăn hợp lý. “Nếu thời tiết đẹp, tôi có thể cho cá ăn 2 lần/ngày. Nếu hôm nào “xấu trời”, không khí trong ao nồng, tôi cho ăn ít đi, trung bình 1 lần/ngày. Lý do là bởi lượng oxi trong nước thấp, cho ăn nhiều cá hô hấp kém, dễ bị ngạt dẫn đến cá chết”, anh Đồng cho biết.

Theo ước tính của anh Đồng, Mỹ Trung hiện có tới 70% hộ gia đình nuôi cá cảnh. Có một số hộ vừa nuôi cá cảnh, vừa nuôi cá thịt. Tuy nhiên, theo như nhiều người nuôi cá ở Mỹ Trung cho biết, nếu những năm trước đây, cá thịt chiếm ưu thế thì khoảng vài năm trở lại đây, người nuôi lại chuyển dần sang nuôi cá cảnh. Lý do là thị trường, giá cả của cá cảnh ổn định hơn cá thịt, cá cũng ít bị dịch bệnh hơn cá thịt. Cũng theo người nuôi cá cảnh ở Mỹ Trung, năm 2014 là thời điểm giá các loại cá chép cảnh như Koi, chép Nhật biến động, rớt đáy thấp nhất xuống còn khoảng 30 đến 40 nghìn đồng/kg. Từ năm 2023 đến nay, giá cá ổn định, thị trường rộng mở, vì vậy người nuôi yên tâm để đầu tư nuôi trồng. Hiện, cá vàng ở Mỹ Trung đang được bán dao động ở mức 4 đến 10 nghìn đồng/đôi, tùy trọng lượng to nhỏ. Cá chép Nhật được bán với giá 70 đến 100 nghìn đồng/kg. Cá Koi có mức giá 140 đến 200 nghìn đồng/kg. Thời điểm cao nhất có thể xuất bán được với giá 300 nghìn đồng/kg. Khác với cá thịt, cá cảnh có thời gian nuôi ngắn hơn, 2,5 tháng, trọng lượng vài lạng là có thể xuất bán. Đối với cá giống, mỗi năm người nuôi xuất được từ 2-3 lứa. Cá thương phẩm, do thời gian nuôi lâu hơn nên trung bình mỗi năm người nuôi xuất bán được từ 1-2 lứa. Cá cảnh ở Mỹ Trung hiện được bán ở khắp các tỉnh, thành phố phía Bắc, tuy nhiên thị trường tiêu thụ mạnh nhất vẫn là Thủ đô Hà Nội. Một số hộ nuôi nhiều trong xã có thể kể đến như hộ gia đình các anh, chị Thắng Hà, Hải Láu, Hiền Lương đều có vài mẫu ao, hằng năm xuất bán nhiều tấn cá cảnh. Những tháng giáp Tết là thời điểm bận rộn nhất của dân làng nghề. Xe cộ khắp nơi đổ về nhập cá, cảnh buôn bán tấp nập diễn ra từ đầu làng đến cuối xã. Những ngày này, anh Đồng có thể xuất bán từ 1-2 tạ cá/ngày. Ngày thường số lượng cá bán của anh cũng lên đến hàng yến. Thu nhập từ việc nuôi cá cảnh giúp đời sống người dân làng nghề dư dả hơn so với trước. “Theo tính toán của tôi, mỗi hộ gia đình nếu làm 1 mẫu ao nuôi cá cảnh mỗi năm thu nhập được khoảng 100 triệu đồng. Trừ chi phí giống, điện nước, thức ăn, thuốc phòng bệnh… cũng còn khoảng gần 70 triệu đồng tiền lãi. Số tiền này giúp những người nuôi cá có thêm chi phí trang trải cuộc sống, lo cho con cái học hành, sắm sanh nhà cửa. Con cá cảnh đang góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn Mỹ Trung”, anh Đồng phấn khởi cho biết. Năm 2023, trừ các khoản chi phí, gia đình anh Trần Trọng Đồng thu về trên 100 triệu đồng tiền lãi từ việc nuôi, kinh doanh cá cảnh.

Bắt đầu nhen nhóm từ niềm đam mê nuôi cá cảnh của những người như anh Đồng, đến nay các xã lân cận như: Mỹ Tân, Mỹ Hà, Mỹ Phúc, Mỹ Thắng ngày càng có nhiều hộ nuôi. Con cá cảnh đã trở thành một trong những mũi nhọn kinh tế trong gia đình các hộ nông dân. Hướng đi mới này do đó đang mang lại hiệu tín hiệu tích cực. Trong một tương lai gần anh Đồng cũng như nhiều người nuôi khác tin tưởng rằng họ sẽ mở rộng được thị trường, giá cả của các loại cá ít biến động, thương hiệu cá cảnh Mỹ Trung được nhiều người biết đến hơn. Có lẽ vì thế, trên những vùng chuyển đổi mênh mông của xã, nhiều ao nuôi vẫn đang được mở rộng hơn trước./.

Xóm Nghề Khô Cá Lóc Ở Bình Thủy Nhộn Nhịp Vào Xuân

Thứ hai – 20/01/2020 16:36

Từ trung tâm thành phố Cần Thơ, đi theo quốc lộ 91B hướng về tỉnh An Giang khoảng 12km là tới xóm nghề khô cá lóc nổi tiếng nhiều năm nay của các hộ dân ở phường Thới An Đông, quận Bình Thủy. Không chỉ phục vụ nhu cầu của nhiều du khách mỗi khi có dịp đi ngang qua, món khô cá lóc của người dân nơi đây còn theo chân thực khách đến khắp các tỉnh, thành trong cả nước.

Từ giữa tháng Chạp đến nay, không khí nhộn nhịp của xóm nghề tăng gấp đôi so với ngày thường theo nhu cầu thưởng thức và mua làm quà biếu của thực khách vào dịp Tết đến Xuân về. Theo người dân địa phương, xóm nghề hiện có khoảng 20 hộ chuyên làm và bán khô cá lóc. Đặc biệt, có trường hợp cả hộ gia đình có đến 11 người cùng làm khô cá lóc gồm cha mẹ, anh chị em và cháu ruột.

Theo lời giới thiệu, chúng tôi được dịp “thị phạm” nơi chế biến loại khô dân dã này. Để đáp ứng số lượng cá làm mỗi ngày lên đến vài trăm kg, nhiều hộ còn đầu tư hẳn máy đánh vảy cá với công suất đánh vảy 50kg cá chỉ trong khoảng 30 phút. Ngoài đánh vảy cá, tất cả các công đoạn còn lại đều nhờ hết vào sự nhanh nhẹn và khéo léo của bàn tay con người. Một người xẻ khô cá lóc giỏi ở đây có thể làm được 100kg cá chỉ trong 3 giờ đồng hồ. Chị Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, một “thợ” xẻ khô cá lóc ở đây, cho biết: “Mỗi ngày, tôi có thể làm được từ 200kg cá lóc. Vừa làm cá, xẻ khô bán tại nhà, tranh thủ thời gian rãnh, tôi có thể làm cá thuê cho các hộ lân cận với tiền công 2.000 đồng/kg”.

Có dịp đến mua khô cá lóc ở đây, các bạn sẽ được nghe người dân chia sẻ hết sức chân thành về cách làm, công thức gia vị ướp cá để có những con khô ngon, bắt mắt và cả cách chế biến những món ăn từ loại đặc sản này. Theo đó, món khô cá lóc ở đây được ướp với các gia vị cơ bản như muối, đường, bột ngọt và thêm ớt bột hoặc có cả tiêu xay nếu khách yêu cầu. Chị Lê Thị Mỹ Ngân, có thâm niên 4 năm trong nghề cho biết: “Muốn có khô ngon thì khô phải được làm từ cá sống. Sau đó đem ướp gia vị trong thời gian vừa đủ cho gia vị ngấm đều vào cá rồi mới đem phơi trên giàn dưới nắng chảng. Khoảng 20 phút thì lật, trở cá một lần để đảm bảo cá khô nhanh, đều và không bị cong”.

Chị Mỹ Ngân bên gian hàng khô của gia đình.

“Không ngon không lấy tiền!”, là câu nói chắc cú của nhiều hộ dân ở đây khi giới thiệu về món khô của mình làm ra. Thật sự, với cách chăm chút của bà con xóm nghề dành cho món khô cá lóc, chịu khó “trực chiến” ngoài trời nắng, lật trở liên tục để cá khô nhanh và thật đều, khách hàng sẽ càng thêm trân trọng và cảm nhận đầy đủ hơn cái ngon của món ăn dân dã này.

Mẻ khô cá lóc đang được phơi trên giàn

Tác giả bài viết: Hải Sơn

Nguồn tin: VKS ND TP Cần Thơ

Nghề Nuôi Cá Bớp Ở Bình Định

Hơn chục năm nay, gần trăm hộ dân ở Hải Minh đầu tư đóng lồng bè để nuôi các giống cá bớp, cá chẽm, cá mú, cá hồng…, nhiều nhất là cá bớp. Chúng tôi về Hải Minh để tìm hiểu quy trình nuôi cá bớp khá độc đáo của người dân ở đây.

Làng chài Hải Minh nằm trên bán đảo Phương Mai thuộc phường Hải Cảng (TP Quy Nhơn, Bình Định) nằm quay mặt ra biển, tựa lưng vào núi, kín gió, rất thuận lợi cho nghề nuôi cá lồng bè.  

Ăn ngủ cùng cá

Từ bến Hàm Tử thuộc phường Hải Cảng, chúng tôi thuê 1 chiếc ghe đò đưa đi vòng quanh những lồng bè nuôi cá nằm san sát vây quanh bán đảo Phương Mai. Con đò ghé mạn vào 1 chiếc bè khá lớn, tôi hỏi to: “Bè mình nuôi cá gì vậy anh?”.

Dù tôi hỏi rõ to nhưng tiếng của chiếc ghe đò nổ xoành xoạch, cộng với tiếng máy xay cá làm thức ăn bữa sáng cho lũ cá vang vang khiến đến mấy phút sau người nghe mới hiểu được ý người hỏi. Chủ bè trả lời gọn: “Cá bớp”. Vậy là tôi rời đò bước lên bè.

Cá bớp lên ăn mồi.

Trên bè, 2 người đàn ông trung niên đứng bên máy xay cá đang hoạt động. Những con cá to bằng cổ tay được cho vào cối xay để sau đó biến thành những miếng cá vụn, tươi roi rói. Hỏi ra thì biết, đó là bữa ăn sáng của lũ cá bớp lứa nhỏ. Bên cạnh, 1 thanh niên đang ngồi dùng dao chặt những con cá thành nhiều khúc, đó là bữa ăn cho lũ cá bớp lứa lớn hơn.

Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi và 2 chủ bè diễn ra giữa tiếng gió lộng và tiếng ồn của máy xay cá.

Ông Nguyễn Lại (56 tuổi), 1 trong 2 chủ bè, kể, ông không phải là người dân Hải Giang, ông ở phường Đống Đa (TP Quy Nhơn, Bình Định). Nghe chuyện người dân Hải Minh nuôi cá lồng bè đạt hiệu quả kinh tế, ông cùng 1 người anh là ông Bùi Văn Hướng (59 tuổi) rủ nhau qua Hải Minh đầu tư 200 triệu đồng mua cây ván đóng lồng bè trên 150m2 diện tích mặt nước và mua lưới, chài để mở cuộc làm ăn.

Ông Bùi Văn Hướng xay cá ồ làm thức ăn cho lứa cá bớp nhỏ.

Cá bớp giống cũng khá đắt, 17.000 đồng/con nhỏ như cây bút bi, ông Lại và ông Hướng phải đầu tư thêm hơn 50 triệu đồng để mua 3.000 con cá giống về nuôi. Hết lứa này đến lứa khác, tính đến nay, ông Lại và ông Hướng đã gắn bó với con cá bớp được 6 năm.

“Do nhà ở xa nên 2 anh em tôi phải ở luôn trên bè để chăm lũ cá. Mỗi sáng sớm chúng tôi chạy ghe về bờ đón mua cá mồi làm thức ăn cho cá nuôi, 6 giờ sáng bắt đầu nổ máy xay cá, băm cá mồi. Dù đã xay bằng máy mà phải mất 4 – 5 tiếng đồng hồ mới xong việc cho cá ăn buổi sáng.

Hiện bè của chúng tôi đang nuôi 2 lứa cá bớp, lứa trước 1.000 con nuôi 5 tháng hiện đạt bình quân 5 kg/con; lứa nhỏ 2.000 con mới nuôi đạt 8 lạng/con. Cá lớn thì cho chúng ăn cá giũa, cá nhỏ thì cho ăn cá ồ. Những loại cá biển làm thức ăn cho cá bớp mua của các ghe làm nghề mành đèn, 13.000 đồng/kg cá giũa và 18.000 đồng/kg cá ồ.

 “Cá bớp thường bị những con bọ nhỏ bằng nửa hạt gạo bâu vào mắt, cá không thấy đường để ăn, ốm dần. Muốn chữa chúng khỏi bị bọ bâu mình phải vớt chúng lên, cho vào thúng chai chừng 100 – 150 con, sau đó xả nước ngọt vào cho chúng bơi lội khoảng 2 phút thì vớt ra sau đó cho chúng xuống lồng trở lại. Muốn phòng bọ cho cá mỗi tuần phải cho chúng tắm nước ngọt 1 lần, vì vậy cứ 5 ngày chúng tôi phải chạy ghe về bờ, mua 1.000 lít nước ngọt để vừa cho người nuôi sinh hoạt, vừa tắm cá”, ông Lại chia sẻ.

Cá bớp ăn ngày 2 lần, sáng và chiều. Hôm nào cá biển vào nhiều chúng tôi cho chúng ăn 5 tạ thức ăn, hôm nào biển động cá ít, cho chúng ăn giảm lại còn 3 – 4 tạ. Cá bớp ăn khỏe nhưng bù lại chúng lớn nhanh như thổi.

Trung bình cứ tiêu tốn 1,5kg thức ăn thì cá tăng trưởng được thêm 1kg. Đầu tư lớn nên anh em tôi phải ăn ngủ cùng cá để chăm sóc chúng”, ông Lại nói.  

Thị trường mênh mông

Ông Bùi Văn Hướng cho biết, nếu vùng nước nuôi sạch, trong, thì tỷ lệ hao hụt của cá giống rất thấp, thả 3.000 con giống chỉ hao hụt khoảng 300 – 400 con.

“Chúng không chịu được nước bẩn nên mình phải thường xuyên vệ sinh những tấm lưới vây quanh lồng, lưới nằm dưới nước lâu ngày bị bùn các chất dơ dưới nước bám vào sẽ gây ô nhiễm vùng nước nuôi khiến cá chết”.

Theo những hộ chuyên nuôi cá bớp ở Hải Minh, nếu cho ăn đủ lực thì nuôi 6 tháng cá đã đạt được trọng lượng 10kg/con. Thị trường không tiêu thụ cá bớp nhỏ, nên hộ nuôi nào bán sớm nhất cá cũng phải đạt trọng lượng 5 kg/con.

Đầu ra của cá bớp thì mênh mông, tại cảng cá Quy Nhơn luôn có những chủ nậu sẵn sáng mở hầu bao thu mua để cung ứng cho các nhà hàng và các công ty chuyên xuất khẩu thủy sản.

“Mấy năm nay giá cá bớp dao động từ 110.000 – 140.000 đồng/kg, hiện nay cá bớp đang có giá 130.000 đồng/kg. Cá bớp không bao giờ bị ế, có bao nhiêu các chủ nậu thu mua hết bấy nhiêu.

Không chỉ có chủ nậu Bình Định thu mua, mà các chủ nậu ở Khánh Hòa cũng thường xuyên túc trực tại Cảng cá Quy Nhơn để đón mua cá bớp lồng bè nuôi ở Hải Minh. Cứ giữ được vùng nước nuôi không bị ô nhiễm, mỗi vụ anh em chúng tôi kiếm mấy trăm triệu dễ như trở bàn tay”, ông Lại cho biết.

Cập nhật thông tin chi tiết về Nghề Nuôi Cá Cảnh Ở Xóm Kim, Xã Mỹ Thắng trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!