Bạn đang xem bài viết Nghề Nuôi Cá Cảnh Còn “Mờ Nhạt” được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Là tỉnh thuộc vùng ĐBSCL, có hệ thống kinh rạch chằng chịt cùng bờ biển dài, lại gần thị trường tiêu thụ rộng lớn là TP Hồ Chí Minh, nên tỉnh Tiền Giang có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nghề nuôi cá cảnh. Tiếc là đến nay nghề nuôi cá cảnh đầy tiềm năng này vẫn còn… rất “mờ nhạt”.
Trải qua hơn 23 năm hình thành và phát triển, nghề nuôi cá cảnh ở địa phương này vẫn còn giậm chân tại chỗ.
Thất bại nhiều hơn thành công
Theo giới kinh doanh cá cảnh lâu năm, nghề nuôi cá cảnh của tỉnh Tiền Giang hình thành từ đầu những năm 1980 với một cơ sở bán cá cảnh tại Phường 1 (TP Mỹ Tho) nhưng chỉ vài năm sau thì cơ sở này đóng cửa.
Đến năm 1990, nghề sản xuất, kinh doanh cá cảnh mới bắt đầu nhen nhóm trở lại với vài hộ sản xuất, kinh doanh cá cảnh quy mô nhỏ. Trong 5 năm gần đây, số lượng cũng như quy mô các cơ sở cá cảnh không có sự biến động lớn, có một số cơ sở cá cảnh hoạt động đều đặn có hiệu quả nhưng cũng có không ít cơ sở giảm diện tích sản xuất, thậm chí phải đóng cửa.
Ông Nguyễn Văn Huế, nông dân nuôi cá cảnh ở Khu phố 5 (Phường 5- TP Mỹ Tho) cho biết, trước đây ông cũng nuôi các loại cá cảnh phổ thông như: cá ba đuôi, bảy màu, trân châu,… nhưng thấy đầu ra bấp bênh, hiệu quả không cao nên đã chuyển sang nuôi cá dĩa đến nay đã được 10 năm.
Hiện tại, trại nuôi cá dĩa của ông Huế có hơn 70 bể kiếng và 30 hồ xi măng (ở xã Tân Thạnh, huyện Châu Thành, Bến Tre) với 300 cặp cá dĩa bố mẹ và 1.000 con cá dĩa hậu bị.
Theo ông Huế, với cơ sở vật chất hiện tại, hàng tháng ông xuất bán trên 6.000 con bột cá dĩa với giá khoảng 3.000 đ/con. Bên cạnh đó, ông cũng bán cá hậu bị nuôi 10-12 tháng tuổi với giá 120.000-150.000 đ/kg; còn cá bố mẹ có thể cho sinh sản ngay với giá 350.000 đ/cặp.
Những năm gần đây trại cá dĩa này có thể đem lại cho ông Huế lợi nhuận hơn 100 triệu đồng/năm. Dù vậy, ông vẫn chưa có kế hoạch mở rộng sản xuất do thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn.
Trường hợp của ông Huế có thể coi như thành công nhưng bên cạnh đó cũng có không ít cơ sở cá cảnh làm ăn không hiệu quả do thiếu linh hoạt trong chuyển đổi đối tượng sản xuất, không tìm được đầu ra.
Ông Nguyễn Minh Trung (Ấp 1, xã Trung An- TP Mỹ Tho) là nông dân nuôi cá cảnh có 21 năm kinh nghiệm với 100 bể kiếng, 20 bể bạt trên diện tích 3.000m2 nhưng ông chỉ nuôi một đối tượng duy nhất là cá bạch tượng.
“Những năm gần đây, tình hình tiêu thụ cá bạch tượng ngày càng khó khăn. Tuy không đến nỗi lỗ lã nhưng hiệu quả kinh tế thấp nên hiện nay tôi đang có ý định chuyển sang giống loài mới. Để hỗ trợ cho người nuôi cá cảnh, tôi đề nghị Nhà nước thành lập tổ hợp tác hay hợp tác xã nuôi cá cảnh, hỗ trợ nông dân kỹ thuật và giống loài mới có hiệu quả cao hơn”- ông Trung chia sẻ.
Còn ông Lê Quốc Cường- nông dân nuôi cá cảnh 10 năm kinh nghiệm với 30 bể bạt chuyên ương, kinh doanh giống cá dĩa ở ấp Tân Thuận (xã Tân Mỹ Chánh- TP Mỹ Tho) cho biết, chi phí sản xuất ngày càng tăng cao, trong khi đầu ra không ổn định, tiêu thụ ngày càng khó khăn nên dự định sẽ giảm diện tích sản xuất trong thời gian tới
Thậm chí, ông Lê Thanh Hải (Khu phố 1, Phường 10- TP Mỹ Tho có kinh nghiệm ương cá cảnh hơn 5 năm với 10 bể kiếng, 7 bể bạt đang thu hẹp dần sản xuất và dự định “bỏ nghề” do nguồn thức ăn cho cá cảnh khan hiếm, giá thành sản xuất tăng nhưng đầu ra không có…
Để nghề nuôi cá cảnh “cất cánh”
Theo Chi cục Thủy sản, hiện nay nhu cầu tiêu thụ cá cảnh trên thị trường rất đa dạng và thường xuyên thay đổi nên việc kịp đáp ứng nhu cầu thị trường là một vấn đề khó, nhất là đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá cảnh quy mô nhỏ.
Tuy nhiên, nếu kiên trì gắn bó với nghề, lựa chọn những loài có đầu ra ổn định, đáp ứng nhu cầu của thị trường thì đây là một nghề có thu nhập khá và có thể mang lại công ăn việc làm 3- 4 nhân khẩu chỉ với diện tích 300- 400m2.
Dù vậy, sự phát triển nghề nuôi cá cảnh ở Tiền Giang vẫn còn “mờ nhạt” do còn nhiều khó khăn, bất cập chưa giải quyết được. Hầu như các cơ sở cá cảnh trên địa bàn tỉnh được hình thành tự phát, manh mún, thậm chí cạnh tranh tiêu cực, chưa thống nhất.
Đa phần chủ các cơ sở cá cảnh chưa qua đào tạo bài bản mà chủ yếu học lóm hay tự mày mò, rút kinh nghiệm. Hầu hết các hộ nuôi cá cảnh xuất bán cho các đầu mối thu mua tại TP Hồ Chí Minh nhờ mối quan hệ lâu năm và các hộ này thường chỉ giới thiệu lại cho một số anh em, bà con trong thân tộc. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ cá cảnh ngày càng thu hẹp do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế.
Hiện nay, hơn 2/3 số hộ nuôi cá cảnh đang sử dụng nguồn nước giếng khoan nhưng muốn cho sinh sản các loài cá có giá trị cao như cá dĩa cần phải giảm độ cứng của nước. Tuy nhiên, các hộ nuôi cá cảnh có diện tích ao, bể thực hiện các biện pháp lắng lọc chưa nhiều.
Trong nuôi cá cảnh, trùn chỉ và trứng nước là 2 loại thức ăn chủ lực nhưng trùn chỉ thì lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung cấp từ TP Hồ Chí Minh với số lượng có hạn và khan hiếm vào các tháng cuối mùa khô. Ngoài ra, hiện nay chưa có các loại thuốc đặc trị cho cá cảnh nên việc điều trị bệnh gặp rất nhiều khó khăn.
Trong những năm sắp tới, tốc độ đô thị hóa sẽ tiếp tục gia tăng, nhu cầu giải trí, thư giãn ngày càng tăng cao kéo theo nhu cầu cá cảnh ngày càng lớn. Đồng thời, cơ hội giao lưu trao đổi xuất nhập khẩu cá cảnh với các nước trên thế giới cũng lớn hơn.
Do đó, để nghề nuôi cá cảnh ở tỉnh Tiền Giang phát triển đáp ứng nhu cầu thị trường, ông Phan Hữu Hội- Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Tiền Giang cho rằng, cần phải có quy hoạch vùng nuôi cá cảnh tập trung gắn tiềm năng với nhu cầu thị trường, từ đó đầu tư cơ sở hạ tầng và có chính sách hỗ trợ về vốn, thị trường cho người nuôi cá cảnh.
Bên cạnh đó, nhanh chóng xúc tiến thành lập hội cá cảnh để chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi, đồng thời nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu thị trường cũng như tìm đầu ra ổn định cho cá cảnh.
Tiền Giang hiện có trên 70 cơ sở sản xuất, kinh doanh cá cảnh phân bố ở các huyện nước ngọt phía Tây của tỉnh, chủ yếu vẫn tập trung ở TP Mỹ Tho với sản lượng cá cảnh cung cấp cho thị trường hàng năm hơn 3 triệu con. Trong đó, cá dĩa, cá phượng hoàng, cá ba đuôi chiếm gần 50%, còn lại là các loài cá có giá trị thấp như cá bảy màu, trân châu, cá lia thia. Thị trường tiêu thụ cá cảnh Tiền Giang chủ yếu vẫn là qua các thương nhân kinh doanh, xuất khẩu cá cảnh tại TP Hồ Chí Minh, chỉ một số ít được bán phục vụ nhu cầu trong tỉnh.
Nghề Nuôi Cá Chép Cảnh Ở Nhật Bản
Những năm gần đây nghề nuôi cá chép cảnh (gọi là cá chép Koi) phát triển rất sôi động, nó không chỉ là bộ môn nghệ thuật, tạo niềm vui mà còn mang lại những khoản lợi nhuận khổng lồ đối cho người dân Nhật Bản.
Cá chép Koi (tên khoa học Cyprinus carpio) thuộc họ Cyprinidae, chi Cyprinus là loài cá được thuần hóa, lai tạo để nuôi làm cảnh, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Chúng có quan hệ họ hàng gần với cá vàng nên cách nuôi cũng khá giống với nuôi cá vàng. Cá chép Koi có các hình xăm trên thân được người Nhật coi là điềm may mắn. Tại Nhật, cá chép cảnh có 2 gam màu chủ đạo là đỏ và trắng được tôn vinh và mua bán rộng rãi.
Để tạo được giống cá đẹp từ năm 1950, Nhật Bản đã cử các chuyên gia đến Mỹ để học cách nhân giống và cách nuôi. Cá chép do người Nhật lai tạo có nhiều màu sắc độc đáo nên rất đắt, có tên gọi chung là “cá chép Nhật” hay Nishikigoi, dịch ra tiếng Việt là cá chép nhiều màu sắc. Cá còn có thêm tên gọi mới là Koi (tình yêu). Do cá Koi của Nhật thuộc loại xuất sắc, đắt và nổi tiếng, nên người Nhật đã tự đặt ra những quy cách về gam màu, để phân biệt từng chủng loại, được chia ra làm 2 loại chính là Koi chuẩn và Koi bướm.
Koi chuẩn có hình dáng giống như cá nguyên thủy, nhưng được pha trộn nhiều màu sắc rất đẹp, nhóm cá này chỉ thật sự đẹp khi được nuôi ở ao. Koi bướm khác với cá nguyên thủy, vây và đuôi dài, khi bơi nhìn uyển chuyển rất đẹp, nên có thể nuôi được ở cả ao và hồ cảnh. Koi bướm còn có những tên gọi khác như “cá chép vây dài” hoặc “cá chép rồng”.
Hiện nay, không riêng gì Nhật Bản mà các nước châu Âu, châu Á cũng biết cách lai tạo giống Koi, nhưng các mảng màu và màu sắc thì khó sánh được với Koi của Nhật. Màu sắc của Koi Nhật rất rực rỡ và có đường biên sắc nét, các mảng màu lớn và đều ở hai bên hông (khi nhìn từ trên xuống, dọc theo sống lưng). Riêng loại Butterfly Koi của Nhật thì vây và đuôi rất dài (có khi bằng 2/3 thân) và màu thì phủ kín đuôi…
Thời gian gần đây xuất hiện giống Koi có màu óng ánh như kim tuyến, nhưng chỉ có trên 2 màu là trắng và vàng mà người Nhật gọi là Kinginrin. Trước đây, cá chép Koi được xác nhận là chiều dài có thể tới 2 m, có thể sống tới 230 năm, rồi suy giảm dần tuổi thọ theo các thế hệ. Người ta cho rằng, phần lớn cá Koi hiện nay, có thể dài tới 1m và tuổi thọ từ 40 – 60 năm tuổi. Nếu cá Koi được nuôi ở ao thì đến năm thứ 8 có thể chiều dài tối đa của cá đạt đến 1 mét.
Theo Baomoi.com
Nghề Nuôi Cá Cảnh Ở Xóm Kim, Xã Mỹ Thắng (Nam Định)
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.Người viết: khachnonghoc, ngày 6/15/2013, trong mục ” CẢNH QUAN”
Một chiều hè, chúng tôi có dịp thăm khu nuôi thủy sản xóm Kim, xã Mỹ Thắng (Mỹ Lộc – Nam Định), “ngắm” những ao nuôi vuông vắn, rộng rãi được quy hoạch liền kề nhau. Đến giờ cho cá ăn, dưới mỗi ao, hàng vạn cá cảnh, cá thịt “ngửi” thấy mùi cám chen chúc tìm thức ăn. Nguồn lợi thu nhập của trên dưới 40 hộ dân xóm Kim nằm ở đây. Con cá cảnh, vì vậy đang tạo ra sinh kế bền vững cho người dân nơi này.
Nếu như cách đây khoảng 5 năm trở về trước, thú chơi cá cảnh của người dân chỉ chủ yếu nhắm vào các “đại gia”, bởi những loại cá bày bán trên thị trường thường có giá khá đắt lên đến hàng triệu đồng, thì hiện nay, cá cảnh đã trở nên bình dân, gần gũi với người dân hơn. Có thể thấy ở mỗi lứa tuổi, người ta tìm cho riêng mình một loại cá để chơi. Qua đó, thể hiện được tính cách cũng như điều kiện của người chơi cá. Các em nhỏ có thể tự sắm cho mình một bể cá nhỏ, tầng lớp trung lưu thì trang trí cho ngôi nhà của mình một bể trồng thủy sinh. Người có thu nhập cao hơn thì chơi bể nước mặn như đại dương thu nhỏ trong nhà… Nắm bắt được nhu cầu đó, từ khoảng 5-7 năm nay, người dân xóm Kim tập trung phát triển nghề nuôi cá cảnh. Các loại cá mà họ hay nuôi là chép cảnh, tam dương ngũ sắc, cá vàng bốn đuôi… 1 đến 2 năm trở lại đây, một số hộ gia đình mạnh dạn đầu tư nuôi thêm một số cá cảnh khác, có giá trị kinh tế cao hơn như cá Koi, cá rồng. Nhưng chủ yếu, ao nuôi của người dân xóm Kim đa số vẫn là các loài chép cảnh, cá vàng bốn đuôi. Một số gia đình thả thêm cá thịt như cá trắm cỏ, cá trắm đen… Để nuôi được các giống cá cảnh cũng đòi hỏi lắm công phu. Đối với các loại cá cảnh như cá tam dương ngũ sắc, cá chép cảnh, hộ nuôi có thể tự nhân giống bằng cách bán cho nhau. Riêng đối với cá vàng bốn đuôi, phải mua giống từ Hải Phòng. Cá cảnh nói chung sau khi đẻ trứng 3, 4 ngày thì thành cá con. Lúc này thức ăn của cá là trứng luộc nghiền nát hòa với nước té xuống hồ cho cá ăn. Giai đoạn tiếp theo người nuôi cá nghiền bột gạo nấu loãng pha thêm nước thành thức ăn cho cá. Cá được 1 tuần tuổi thì lấy cám vịt, cám lợn ngâm cho nở hòa với nước làm mồi cho cá. Khi cá được 20 ngày tuổi trở lên thì mua cám hạt to khoảng 1 li làm thức ăn cho cá. Giống cá cảnh, theo những người nuôi ở đây cũng ít khi bị mắc bệnh, có sức chịu đựng, chống chọi với mùa đông rất tốt. Tuy nhiên vào dịp cuối năm do cá ít vận động nên thường bị mắc một số chứng bệnh như thối mang cá. Khi đó, người nuôi phải sục nước trong ao, té nước vôi loãng và cho cá ăn thuốc tỏi “Tiên đắc” để phòng thối mang cá. Khi cá gần đẻ thì phải tách các đôi cá bố mẹ riêng để chủ động việc phối giống cho cá. Đối với loài chép cảnh, người nuôi kỳ công hơn, phải bắt từng cặp bố mẹ lên để tiêm thuốc kích thích cho cá đẻ đồng loạt. Người nuôi cá xóm Kim gọi thời kỳ cá đẻ là “vật cá”. Tháng 2, tháng 3 chính là thời điểm cá cảnh đẻ rộ.
Ông Trần Văn Mạnh chăm sóc cá cảnh trong ao nuôi của gia đình.
Ông Trần Văn Mạnh, tham gia phong trào nuôi cá cảnh của xóm từ những ngày đầu. Hiện ông có 1,5 mẫu ao được chia thành 4 ao nhỏ. Với diện tích như vậy, ông Mạnh chỉ thuộc “hàng trung” nuôi cá của xóm. Ao nuôi của gia đình ông hiện có 1,5 vạn cá cảnh với 2 loại chính là cá chép cảnh và tam dương ngũ sắc. Ngoài ra, ông cũng nuôi thêm một số cá thịt như trắm đen. Cũng như các hộ gia đình nuôi cá khác trong xóm, gia đình ông Mạnh lúc nào cũng có cá bán quanh năm. Ông Mạnh cho biết: “Giá các loại chép cảnh hiện nay là 70-75 nghìn đồng/cân. Cá tam dương ngũ sắc có giá từ 80-90 nghìn đồng/cân. Cá Koi có giá 150-250 nghìn đồng/cân. Cá vàng bốn đuôi giá 15-20 nghìn đồng/đôi đối với loại nhỏ. Loại to đạt 80-90 nghìn đồng/đôi. Dịp cuối năm, nhất là vào mùa Tết ông Công, ông Táo giá các loại cá cảnh có thể nhích lên do nhu cầu của người dân vào dịp này tăng mạnh”. Vụ cá năm 2012, sau khi trừ mọi chi phí, ông thu về 50-70 triệu đồng. 6 tháng đầu năm 2013, do giá cả các loại cá đều giảm, ông cho biết có thể năm nay gia đình có mức thu nhập thấp hơn so với năm ngoái một chút.
Đến gia đình ông Trần Văn Hiền, chúng tôi gặp con trai lớn của ông là Trần Văn Ngọc. Anh Ngọc tham gia nuôi cá cùng với bố cũng đã được hơn 1 năm nay. Gia đình anh hiện có trên 6 mẫu ao nuôi cá với tổng diện tích hơn 20 nghìn m2 mặt nước, 2-3 tấn cá trắm đen, 3-4 tấn cá chép cảnh. Gia đình anh Ngọc cũng là người có diện tích nuôi thả cá nhiều nhất xóm Kim. Anh Ngọc cho biết, cho đến thời điểm hiện tại, gia đình đã “đổ” xuống ao gần 1 tỷ đồng để xây dựng 10 ao nuôi. Toàn bộ hệ thống ao nuôi của gia đình đều có hệ thống cống bơm tiêu nước liên thông, khép kín, xung quanh ao và đáy được bê tông hóa. Gia đình anh dành 3 ao để ươm cá trắm đen giống, 7 ao còn lại nuôi cá vàng, cá chép đuôi dài, cá chép vàng In-đô-nê-xi-a… Ngoài ra, nhận thấy nhu cầu chơi cá rồng trên thị trường trong mấy năm trở lại đây tăng lên, gia đình anh mạnh dạn đầu tư thêm vốn, tìm hiểu kỹ thuật nuôi. Năm 2012, gia đình anh đầu tư 50 triệu đồng mua 100 đôi cá rồng về thả nuôi. Giống cá này không nuôi đại trà ngoài ao mà phải nuôi trong bể kính, thức ăn hằng ngày là cá con và tép. Cũng như các loại cá cảnh khác, người nuôi cá rồng nuôi trong khoảng thời gian 6 tháng thì xuất bán. Theo anh Ngọc, một đôi cá rồng sau 6 tháng nuôi có giá bán vào khoảng 900 nghìn – 1 triệu đồng/đôi cho lái buôn. Mỗi lần bán, nhà anh xuất khoảng 10 đôi. Có khoảng 10 hộ gia đình nuôi cá rồng trong xóm. Tuy nhiên, người nuôi cá rồng cũng phải đối mặt với nhiều loại bệnh tật như thối mang, cụt râu, mù mắt… đòi hỏi phải có kinh nghiệm và tốn công chăm sóc. Năm 2012, gia đình anh Ngọc xuất bán hơn 2 tấn cá trắm đen giống và gần 8 tấn cá cảnh các loại, lãi trên 300 triệu đồng.
Có thể thấy, nghề nuôi cá cảnh đang góp phần giúp nhiều hộ dân xóm Kim ổn định cuộc sống, vươn lên làm giàu chính đáng. Những người nuôi trung bình như gia đình ông Mạnh đến những người nuôi lớn như gia đình anh Ngọc đều thu được lợi nhuận “kha khá” sau mỗi vụ cá. Từ nguồn thu nhập này, giúp họ có vốn để đầu tư cơ sở vật chất cho các ao nuôi, đầu tư giống cá mới và nhất là ổn định cuộc sống. Nghề nuôi cá cảnh đòi hỏi công chăm sóc nhiều hơn nuôi các loại cá thịt. Tuy nhiên, theo các hộ nuôi cá ở đây, người nuôi chỉ tốn công sức hơn vào giai đoạn cá bố mẹ chuẩn bị phối giống và cá con mới đẻ. Còn lại thì việc nuôi, chăm sóc cũng không quá khắt khe. Hơn nữa, lại có thể tận dụng được nguồn lao động trong thời gian rỗi rãi, hầu như già trẻ đều có thể tham gia nuôi cá được. Tuy nhiên, hai năm trở lại đây, cũng theo người dân xóm Kim, do kinh tế khó khăn, người chơi cá cảnh cũng hạn chế, dẫn đến giá các loại cá bán ra thấp, ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lý người nuôi. Hơn nữa, theo quan sát của chúng tôi, không phải ao nuôi nào của các hộ dân cũng được đầu tư kỹ càng hệ thống cống bơm tiêu nước liên thông, dẫn đến nguồn nước trong một số ao bị ô nhiễm, gây mầm bệnh, ảnh hưởng đến chất lượng cá. Để có thể “trụ” với nghề, người nuôi cá cảnh xóm Kim ngoài việc đầu tư thêm cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ao nuôi cần tích cực học hỏi kinh nghiệm, kiến thức khoa học kỹ thuật qua các phương tiện thông tin đại chúng, học từ những người có thâm niên… để chăm sóc cá tốt hơn. Ngoài ra, để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của dân chơi cá cảnh, nên chăng, người nuôi cá ở đây phải tự sáng tạo, lai tạo những giống cá đẹp, độc đáo mang thương hiệu riêng. Bởi theo các nghệ nhân cá cảnh: “Cá cảnh được ưa chuộng không phải được tính bằng trọng lượng, kích thước mà chúng được tính bằng vẻ đẹp hoàn mỹ thông qua màu sắc, hình dáng”.
Hoa Xuân
Nguồn tin: Báo Nam Định
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.
Khó Khăn Và Giải Pháp Cho Nghề Nuôi Cá Cảnh
Là tỉnh có hệ thống kênh rạch chằng chịt cùng bờ biển dài hơn 32 km và vị trí địa lý gần chúng tôi nên Tiền Giang có điều kiện rất thuận lợi để nuôi cá cảnh, song nghề này vẫn chậm phát triển.
Theo giới kinh doanh cá cảnh lâu năm, nghề nuôi cá cảnh tại Tiền Giang bắt đầu hình thành từ đầu những năm 1980 với một cơ sở chuyên bán cá cảnh tại phường 1 (TP Mỹ Tho). Nhưng chỉ vài năm sau thì cơ sở này đóng cửa.
Mãi đến năm 1990, nghề SXKD cá cảnh mới bắt đầu nhen nhóm trở lại với vài hộ làm quy mô nhỏ. Điển hình là hộ ông Nguyễn Văn Giác ở phường 5 (TP Mỹ Tho) chuyên nuôi cá tàu, lia thia trên diện tích 400 m2, hộ ông Lê Văn Đực cũng nuôi 300 m2.
Trong 5 năm gần đây, quy mô cũng như sản lượng các cơ sở SXKD cá cảnh vẫn không có sự biến động lớn. Bên cạnh cơ sở mới hình thành thì cũng có nơi hoạt động không hiệu quả phải đóng cửa. Hiện nay, theo số liệu khảo sát chưa đầy đủ của ngành chức năng, Tiền Giang có trên 70 cơ sở SXKD cá cảnh phân bố ở các vùng nước ngọt phía Tây của tỉnh nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở TP Mỹ Tho.
Qua kết quả khảo sát của cơ quan quản lý thủy sản, hầu như các cơ sở SXKD cá cảnh đều không có kế hoạch mở rộng quy mô, mà chủ yếu là giữ nguyên, thậm chí có hộ dự định thu hẹp SX. Hiện các cơ sở cung cấp cho thị trường trên 20 loài cá cảnh các loại, nhưng chỉ 7 – 8 loài có thị trường tiêu thụ ổn định.
Cá cảnh, một đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao
Gần đây, cơ cấu các loài cá cảnh đã có sự chuyển biến rõ rệt theo hướng tăng tỷ lệ các loài cá cảnh có giá trị cao. Tuy nhiên, các loại cá giá trị thấp vẫn chiếm tỷ lệ cao, trong số xấp xỉ 3 triệu cá cảnh cung cấp cho thị trường hằng năm thì các loài có giá trị cao như cá dĩa, cá Phượng Hoàng, cá ba đuôi chiếm gần 50%, còn lại là loài có giá trị thấp như cá bảy màu, trân châu, cá lia thia.
Do đặc thù phân bố, nên nghề nuôi cá cảnh trên địa bàn tỉnh chủ yếu là cá nước ngọt. Thị trường tiêu thụ chủ yếu qua các thương nhân kinh doanh, xuất khẩu cá cảnh tại TPHCM, chỉ một số ít được bán phục vụ nhu cầu trong tỉnh. Bên cạnh đó, một số hộ bắt cá bột từ TPHCM về ương dưỡng trong vài tháng thành cá giống lớn rồi giao trở lại nơi cung cấp giống.
Theo các chuyên gia thủy sản, nhu cầu tiêu thụ cá cảnh trên thị trường rất đa dạng và thường xuyên thay đổi nên việc kịp đáp ứng nhu cầu là một vấn đề khó, nhất là đối các cơ sở SXKD cá cảnh quy mô nông hộ.
Tuy nhiên, nếu kiên trì gắn bó với nghề, lựa chọn những loài có đầu ra ổn định, đầu tư SX giống theo nhu cầu của thị trường, đồng thời tích lũy kinh nghiệm, nâng cao được tỷ lệ sống thì đây là một nghề có thu nhập khá so với các nghề nông nghiệp khác và có thể mang lại công ăn việc làm 3 – 4 nhân khẩu chỉ với diện tích 300 – 400 m2.
Mặc dù, trải qua chặng đường khá dài nhưng nghề nuôi cá cảnh ở Tiền Giang có thể nói là chậm phát triển. Hầu như các cơ sở đều hình thành tự phát, manh mún; thậm chí cạnh tranh tiêu cực, chưa thống nhất được về một hướng. Đến nay vẫn chưa tập hợp được những người nuôi cá cảnh lại với nhau thành tổ chức hội, việc quy hoạch nuôi cũng chưa được quan tâm xây dựng.
Theo kết quả khảo sát, đa phần chủ các cơ sở SXKD cá cảnh chưa qua đào tạo bài bản mà chủ yếu học lỏm hay tự mày mò, rút kinh nghiệm. Trong khi đó các tài liệu kỹ thuật về cá cảnh rất hiếm, các lớp dạy nghề nuôi rất thưa thớt, người nuôi chưa nhận được sự trợ giúp nào về kỹ thuật nuôi, nguồn vốn SX cũng như tiếp cận thị trường.
Hầu hết các hộ nuôi cá cảnh xuất bán cho các đầu mối thu mua ở các chợ cá cảnh tại TPHCM. Các đầu mối thu mua này có mối liên hệ chặt chẽ với các hộ SXKD cá cảnh lâu năm trong nghề và các hộ này thường chỉ giới thiệu lại cho một số anh em, bà con thân tộc. Vì thế hộ mới đầu tư nuôi rất khó kiếm được đầu ra. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ cá cảnh trong và ngoài nước nói chung ngày càng thu hẹp do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế.
Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, các mương rạch trong thành phố dần bị thu hẹp, bồi lấp và nhiễm bẩn nên có hơn 2/3 số hộ nuôi cá cảnh sử dụng nguồn nước giếng khoan. Chất lượng nước giếng khoan tại TP Mỹ Tho có thể nuôi được nhiều loại cá cảnh nước ngọt nhưng khi muốn cho sinh sản một số loài cá có giá trị cao như cá dĩa cần có biện pháp giảm độ cứng.
Tuy nhiên, hiện tại chỉ có một số ít hộ nuôi cá cảnh có diện tích ao, bể thực hiện các biện pháp lắng lọc nước giếng trước khi đưa vào nuôi cá nên cũng có ảnh hưởng đến sức sinh sản cũng như tỷ lệ sống của một số loài.
Trong nuôi cá cảnh, trùn chỉ và trứng nước là hai loại thức ăn chủ lực. Trong đó, nguồn trứng nước đã chủ động SX được trong tỉnh nhưng trùn chỉ thì lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung cấp từ TPHCM với số lượng có hạn và khan hiếm vào các tháng cuối mùa khô. Do đó, một số hộ dân có ý định đầu tư nuôi cá cảnh còn e ngại vì không tìm được nguồn cung cấp trùn chỉ.
Giống như các loại cá nuôi khác, cá cảnh cũng thường mắc những bệnh như ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn. Tuy nhiên, khi cá mắc bệnh việc điều trị chủ yếu là dùng thuốc xử lý nước, rất khó đưa thuốc vào cơ thể cá bằng đường thức ăn vì cá cảnh có thói quen ăn thức ăn tươi sống.
Hơn nữa, việc điều trị bệnh chủ yếu sử dụng kháng sinh mua ở các tiệm thuốc tây để ngâm tắm cá bệnh và thuốc thú y thủy sản khác chứ chưa có loại thuốc đặc trị cho cá cảnh…
Trong những năm sắp tới, tốc độ đô thị hóa sẽ tiếp tục gia tăng, đồng thời mức sống của người dân đô thị được nâng cao, nhu cầu giải trí, thư giãn ngày càng tăng cao kéo theo nhu cầu cá cảnh ngày càng lớn. Đồng thời, Việt Nam cũng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, cơ hội giao lưu trao đổi xuất nhập khẩu cá cảnh với các nước mở ra.
Để nghề nuôi cá cảnh phát triển, đáp ứng nhu cầu thị trường cần phải có quy hoạch vùng nuôi tập trung gắn tiềm năng với nhu cầu thị trường, từ đó đầu tư cơ sở hạ tầng và có chính sách hỗ trợ về vốn, tìm kiếm thị trường cho người nuôi. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng xúc tiến thành lập Hội cá cảnh để chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi; đồng thời nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu thị trường cũng như tìm đầu ra ổn định.
Các hộ nuôi cần áp dụng một số biện pháp xử lý nước trước khi đưa vào nuôi cá như lắng lọc nước bằng hệ thống lọc cơ học hay sinh học để làm sạch và mềm nước tạo môi trường thích hợp cho sự sinh sản và phát triển của nhiều loài cá cảnh có giá trị cao.
Đồng thời nghiên cứu sử dụng các nguồn thức ăn tự nhiên có thể tự SX được như trứng nước, trùn quế, trùng cỏ, ấu trùng artemia hay thức ăn viên tổng hợp. Nếu có điều kiện thì tiến hành nuôi trùn chỉ tại nông hộ để chủ động được nguồn thức ăn và hạn chế mang mầm bệnh cho cá nuôi.
Cập nhật thông tin chi tiết về Nghề Nuôi Cá Cảnh Còn “Mờ Nhạt” trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!