Xu Hướng 6/2023 # Mô Hình Nuôi Cá Dìa Thương Phẩm Cho Năng Suất Cao Ở Quãng Ngãi # Top 12 View | Psc.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Mô Hình Nuôi Cá Dìa Thương Phẩm Cho Năng Suất Cao Ở Quãng Ngãi # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Mô Hình Nuôi Cá Dìa Thương Phẩm Cho Năng Suất Cao Ở Quãng Ngãi được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cá dìa (Siganus gustatus) có giá trị kinh tế. Nhờ đặc tính ăn tạp, chúng được nuôi kết hợp với tôm sú và được xem là loài nuôi hiệu quả trong ao nuôi tôm dịch bệnh.

Đặc điểm sinh học

Cá dìa có hình bầu dục dẹt 2 bên, mắt to tròn, đầu nhỏ, thân trơn nhẵn, màu hơi đen, trên thân có những chấm vàng sẫm, bụng màu bạc, vây lưng và vây hậu môn có gai cứng. Cá trưởng thành dài 25 – 30cm, trọng lượng 1 – 2kg, ngoài tự nhiên thường bắt được cá khoảng 0,5 – 0,7kg.

Cá dìa là loại di cư và sống theo bầy đàn. Chúng thành thục sau 1 – 2 năm tuổi, sinh sản ở vùng nước lợ. Khi còn nhỏ, chúng sống chủ yếu ở vùng đầm phá cửa sông, trưởng thành thì di cư ra biển, tìm đến các ghềnh đá, bãi san hô… để sinh sản. Mùa sinh sản (tháng 5 – 6 dương lịch), trứng cá nở thành cá bột theo thủy triều dạt vào các bãi bồi để sinh trưởng và phát triển. Cá dìa thích ứng nồng độ muối trong nước biển từ 5 đến 37‰ và sinh trưởng thích hợp nhiệt độ 24 – 28 0 C.

Cá dìa hoạt động và kiếm mồi ban đêm, thức ăn chủ yếu là thực vật thủy sinh, mùn bã hữu cơ; trong điều kiện nuôi, chúng có thể ăn thức ăn tổng hợp.

Ngoài tự nhiên, cá dìa sau 1 năm tuổi có thể đạt trọng lượng trung bình 0,4 kg/con. Trong điều kiện nuôi, chúng có thể đạt trọng lượng 0,5kg sau 6 tháng. Cá sử dụng tốt thức ăn tự chế và thức ăn công nghiệp với hàm lượng đạm 20 – 25%.

Năm 2023, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình đã triển khai mô hình nuôi cá Dìa thương phẩm tại vùng nuôi trồng thủy sản mặn lợ của phường Phú Hải, TP. Đồng Hới và xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch trên diện tích 4.000 m2.

Trong những năm qua, phong trào nuôi trồng thủy sản tỉnh Quảng Bình có những bước phát triển đáng kể. Bên cạnh những kết quả đạt được cũng gặp không ít khó khăn do giá tôm nguyên liệu thấp, dịch bệnh thường xảy ra tại các vùng nuôi tôm trong ao đất.

Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng diễn biến phức tạp, môi trường ở các vùng nuôi tôm lâu năm bị ô nhiễm, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, đã làm cho người nuôi tôm luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro.

Trước tình hình đó, việc lựa chọn, bổ sung các đối tượng nuôi mặn, lợ có giá trị kinh tế đưa vào nuôi luân canh, xen canh tại các vùng nuôi tôm thường xảy ra dịch bệnh nhằm thay đổi môi trường, đồng thời đa dạng hóa đối tượng nuôi là rất cần thiết.

Năm 2023, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình đã triển khai mô hình nuôi cá Dìa thương phẩm tại vùng nuôi trồng thủy sản mặn lợ của phường Phú Hải, TP Đồng Hới và xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch trên diện tích 4.000 m2.

Ông Võ Đại Chung, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình cho hay, kết quả sau 6 tháng triển khai cho thấy, cá có tỉ lệ sống trên 85%, trọng lượng thu hoạch trung bình 160 g/con, sản lượng ước đạt 800 kg.

Với giá bán trên thị trường như hiện nay là 200.000 đồng/kg sẽ cho doanh thu 160 triệu đồng, sau khi trừ đi các chi phí trực tiếp hộ gia đình lãi trên 82 triệu đồng. Bên cạnh đó, hiệu quả đạt được của mô hình tạo tiền đề bổ sung đối tượng nuôi mới, luân canh, xen canh với các đối tượng tôm, cua nhằm hạn chế suy thoái môi trường, dịch bệnh, tiến tới nuôi bền vững; khai thác tiềm năng ao hồ nuôi thủy sản mặn, lợ, hồ nuôi tôm kém hiệu quả hoặc bị bỏ hoang sang nuôi cá Dìa; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nuôi.

Cá dìa – Loài nuôi nước lợ đáng giá

Nhờ đặc tính ăn tạp nghiêng về thực vật và mùn bã hữu cơ, cá dìa được nuôi ghép với tôm sú. Trong ao nuôi, cá dìa tận dụng tốt nguồn rong, tảo và một phần thức ăn thừa cùng mùn bã hữu cơ, giúp môi trường nước nuôi sạch hơn, giảm thiểu dịch bệnh. Với giống lớn, mật độ thả ghép thưa (0,5 – 1 con/m 2) sau 4 – 5 tháng nuôi cùng tôm, cá dìa có thể cho thu hoạch 0,8 – 1 tấn/ha, tỷ lệ sống 60% trở lên lợi nhuận ước đạt 70 – 80 triệu đồng/ha. Quan trọng hơn cả, khi nuôi ghép với tôm sú, tôm vẫn phát triển tốt, ít dịch bệnh, giảm được chi phí thuốc và hóa chất trong quá trình nuôi.

Ngoài ra, cá dìa còn là đối tượng nuôi chính trong ao nuôi tôm bị dịch bệnh; vừa mang lại hiệu quả kinh tế, đồng thời giúp tiêu diệt mầm bệnh tồn lưu trong ao tôm. Với mật độ thả 2 – 3 con/m 2, sử dụng thức ăn tự chế hoặc cám công nghiệp, sau 10 – 12 tháng nuôi, cá có thể đạt trọng lượng 0,6 – 1 kg/con. Đặc biệt, cá dìa ăn tạp nên tính cạnh tranh của cá thấp, tỷ lệ sống cao.

Hiện nay, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Đại học Huế, Đại học Nha Trang, Đại học Cần Thơ đã thử nghiệm sản xuất giống cá dìa nhân tạo thành công, nhưng số lượng con giống còn hạn chế. Do vậy, nguồn giống cá dìa vẫn chủ yếu từ tự nhiên, hàng năm vào tháng 6 – 7 dương lịch, hoặc tháng 9, 10, tập trung nhiều ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Khánh Hòa, Bình Thuận, giá bán 3 – 4 nghìn đồng/con, kích cỡ 3 – 4cm.

Thả ghép cá dìa với tôm hoặc nuôi cá dìa trong ao tôm bị dịch bệnh đang là giải pháp nhằm chuyển hướng từ độc canh con tôm sang đa canh, đa con ở miền Trung hiện nay.

Nuôi cá dìa trong ao đất kết hợp tôm sú

Cá dìa là một đặc sản của Thừa Thiên Huế, không chỉ người dân Huế mà cả khách du lịch đều biết đến giá trị thương phẩm của loài này. Nắm bắt nhu cầu thị trường, đồng thời được sự vận động của các cán bộ Trung tâm Khuyến ngư tỉnh, anh Nguyễn Văn Dưỡng ở thôn Triệu Thôn, xã Phú An, huyện Phú Vang đã mạnh dạn đầu tư hơn 5000 m 2 ao đất của mình để nuôi cá dìa kết hợp với nuôi tôm sú.

Từ những kiến thức đã học hỏi từ các cán bộ kỹ thuật, anh Dưỡng cho biết cá dìa là đối tượng nuôi có nhiều ưu điểm phù hợp với điều kiện tự nhiên của Huế. Chúng là loài rộng nhiệt, rộng muối, chịu được biên độ dao động muối từ 5-37‰. Thức ăn của cá dìa là thực vật thuỷ sinh, mùn bã hữu cơ, đồng thời chúng vẫn có thể ăn thức ăn tổng hợp nên rất tốt cho việc cải thiện môi trường ao nuôi.

Các bước thực hiện trong quá trình nuôi cá dìa của anh Dưỡng như sau:

Trước khi thả nuôi cá phải tiến hành cải tạo kỹ ao nuôi. Sau khi cày xới mặt ao, anh Dưỡng dùng 500 kg vôi bột rải đều mặt ao, đặc biệt bón nhiều ở những chỗ còn đọng nước. Dùng phân vi sinh và phân NPK để gây màu nước với hàm lượng 10kg phân vi sinh/100m 2 và 3kg phân NPK/100 m 2.

Trên diện tích 5000 m 2, anh Dưỡng thả 2500 con cá dìa giống cỡ 50-70g/con, 7.500 tôm sú giống.

Chăm sócBiết được cá dìa là loài ăn thực vật thủy sinh, mùn bã hữu cơ nên anh Dưỡng tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên như rong tảo. Ngoài ra anh còn tự chế biến thức ăn từ ngũ cốc, cá tạp. Trong quá trình nuôi, cá dìa cũng mắc phải một số bệnh như bệnh ký sinh trùng và bệnh nhiễm khuẩn nhưng sau khi xử lý bằng formol (100%) với nồng độ 100-150ppm thì cá hết bệnh.

Sau 3 tháng nuôi anh Dưỡng thu được 312 kg cá dìa thịt, 150 kg tôm sú, 100 kg cua và tôm đất. Cá dìa có trọng lượng bình quân 250g/con, tỷ lệ sống 50%. Sau khi trưừchi phí, anh Dưỡng thu lãi hơn 8 triệu đồng.

Mô hình nuôi cá dìa kết hợp nuôi tôm sú bước đầu thành công đã làm tăng thu nhập của gia đình anh Dưỡng. Cá dìa sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên nên chi phí thức ăn thấp. Tuy nhiên cần phải lưu ý lựa chọn con giống sạch, có chế độ chăm sóc tốt, đề phòng các bệnh, chủ động theo dõi các yếu tố môi trường vì cá dìa khá nhậy cảm với biến đổi thời tiết.

Nuôi cá dìa thu nhập nửa tỷ đồng mỗi năm

Trại nuôi cá nước lợ – 4ha của ông Phạm Văn Thanh (thôn Kế Sung, xã Phú Diên, huyện Phú Vang, Thừa Thiên – Huế) có thu nhập mỗi năm đạt 500 triệu đồng.

Năm 2002, ông Thanh làm hồ sơ xin thuê 4ha đất ven phá Tam Giang để mở trại nuôi thủy sản nước lợ. Tiếp theo ông đầu tư vốn xây thành ngăn hồ, nạo vét lòng hồ, xây cống để dẫn và thoát nước trực tiếp từ phá Tam Giang. Thời gian đầu, ông chỉ nuôi tôm, cua thương phẩm và cá dìa. Sau một thời gian, thấy thu nhập không ổn định, ông tập trung đầu tư nuôi cá dìa, cá kình.

Theo ông Thanh: “Cá dìa rất khó nuôi do sức cạnh tranh bầy đàn kém và khả năng thích ứng chậm. Thế nên tôi chủ động nuôi với mật độ thấp, nhờ đó cá sinh trưởng rất tốt”. Chỉ sau 10-12 tháng nuôi cá, mỗi hồ cá dìa đem lại cho ông xấp xỉ 100 triệu đồng lãi ròng. Ông Phạm Văn Thanh kiểm tra hồ nuôi cá đối mục.

Năm 2012, trung tâm Khuyến ngư tỉnh Thừa Thiên – Huế đưa triển khai mô hình nuôi cá đối mục đã chọn trang trại của ông Thanh làm thí điểm và đạt được hiệu quả vượt trội. So với các loài cá nước lợ khác, cá đối mục có thời gian sinh trưởng ngắn (khoảng 6 tháng là có thể xuất bán), thức ăn của cá rất đa dạng, vừa là thức ăn công nghiệp, vừa là rong tảo thiên nhiên.

Cá đối mục có sức cạnh tranh bầy đàn tốt nên có thể nuôi với mật độ cao. Loại cá này rất được giá (khoảng 160-200 nghìn đồng/kg) nên chỉ sau 6 tháng triển khai, hồ cá đối mục với 5.000 con giống thả ban đầu đã đem lại cho ông Thanh khoảng 150 triệu đồng lợi nhuận.

Nhận thấy dấu hiệu khả quan, ông Thanh tập trung đầu tư nuôi cá đối mục. Không những vậy, ông còn thử nghiệm nuôi xen ghép cá đối mục với tôm sú và cua thương phẩm để tăng hiệu quả, tận dụng được nguồn thức ăn của mỗi loài. Những năm gần đây, ông Thanh luôn có thu nhập ổn định 500 triệu đồng/năm.

Năm nào gia đình ông cũng được Hội Nông dân huyện Phú Vang tặng bằng khen về thành tích sản xuất kinh doanh giỏi.

Đặc Điểm Sinh Học Và Mô Hình Nuôi Cá Basa Cho Năng Suất Cao

Đặc điểm sinh học của cá Basa Phân loại

Bộ cá nheo Siluriformes.

Họ cá tra Pangasiidae.

Giống cá ba sa Pangasius.

Loài cá ba sa Pangasius bocourti (Sau vage 1880).

Phân bố

Cá Basa phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long và khu vực duyên hải miền Trung. Có thể sống ở mọi tầng nước, thích vùng nhiệt độ ấm.

Cá Basa có thể chịu đựng được: nông độ oxy thấp, pH từ 4 -5, độ mặn từ 0 – 35‰

Cá ba sa phân bố ở lưu vực sông Mê kông, có mặt ở cả 4 nước Lào, Việt Nam, Campuchia và Thái lan. Ở nước ta những năm trước đây khi chưa có cá sinh sản nhân tạo, cá bột và cá giống tra và ba sa được vớt trên sông Tiền và sông Hậu. Cá trưởng thành chỉ thấy trong ao nuôi, rất ít gặp trong tự nhiên địa phận Việt nam, do cá có tập tính di cư ngược dòng sông Mê kông để sinh sống và tìm nơi sinh sản tự nhiên.

Hình thái và sinh lý

Cá basa là cá da trơn, có thân dài, chiều dài chuẩn bằng 2,5 lần chiều cao thân. Ðầu cá ba sa ngắn, hơi tròn, dẹp bằng, trán rộng. Miệng hẹp, chiều rộng của miệng ít hơn 10% chiều dài chuẩn, miệng nằm hơi lệch dưới mõm. Dải răng hàm trên to và rộngvà có thể nhìn thấy khi miệng khép. Có 2 đôi râu, râu hàm trên bằng chiều dài đầu, râu mép dài tới hoặc quá gốc vây ngực. Mắt to, bụng to, lá mỡ rất lớn, phần sau thân dẹp bên, lưng và đầu màu xám xanh, bụng trắng bạc. Chiều cao của cuống đuôi hơn 7% chiều dài chuẩn.

Đặc điểm dinh dưỡng

Cá ba sa có tính ăn tạp thiên về động vật. Hệ tiêu hóa của cá thực sự hòan chỉnh 3 ngày sau khi bắt đầu ăn thức ăn bên ngòai. Cá rất háu ăn nhưng ít tranh, sau khi hết noãn hoàng cá ăn phù du động vật là chính. Trong điều kiện nuôi nhân tạo thức ăn thích hợp giai đọan đầu là ấu trùng Artemia, Moina, đạt được tỷ lệ sống tới 91 – 93%, trong khi dùng thức ăn nhân tạo thì tỷ lệ sống chỉ đạt 67% và tốc độ tăng trưởng cũng kém hơn. Từ ngày tuổi thứ 7 có thể chuyển sang ăn thức ăn nhân tạo. Nhu cầu protein của cá khỏang 30 – 40% khẩu phần, hệ số tiêu hóa protein khỏang 80-87% và hệ số tiêu hóa chất béo khá cao 90 – 98% (Nguyễn Tuần, 2000). Giai đoạn lớn cá cũng có khả năng thích ứng nhanh với các loại thức ăn có nguồn gốc động vật, thực vật và dễ kiếm như hỗn hợp tấm, cám, rau, cá vụn và phụ phẩm nông nghiệp, do đó thuận lợi cho người nuôi khi cung cấp thức ăn cho cá trong bè.

Khi phân tích thức ăn trong ruột cá đánh bắt ngoài tự nhiên, cho thấy thành phần thức ăn khá đa dạng và thiên về động vật và mùn bã hữu cơ.

Cá không có cơ quan sinh dục phụ (sinh dục thứ cấp), nên nếu chỉ nhìn hình dáng bên ngoài thì khó phân biệt được cá đực, cái. Ở thời kỳ thành thục, tuyến sinh dục ở cá đực phát triển lớn gọi là buồng tinh hay tinh sào, ở cá cái gọi là buồng trứng hay nõan sào. Tuyến sinh dục của cá bắt đầu phân biệt được đực cái từ giai đọan II tuy màu sắc chưa khác nhau nhiều. Các giai đọan sau, buồng trứng tăng về kích thước, hạt trứng màu vàng, tinh sào có hình dạng phân nhánh, màu hồng chuyển dần sang màu trắng sữa. Hệ số thành thục của cá (nuôi vỗ trong ao và bè) đạt 2,72 – 6,2%, sức sinh sản tuyệt đối đạt tới 67.000 trứng (cá 7 kg). Kích thước của trứng tương đối nhỏ và có tính dính, đường kính trứng từ 1,6 – 1,8 mm. Mùa vụ thành thục của cá trong tự nhiên bắt đầu từ tháng 5 dương lịch, cá có tập tính di cư đẻ tự nhiên trên những khúc sông có điều kiện sinh thái phù hợp thuộc địa phận Campuchia và Thái lan, không đẻ tự nhiên ở phần sông của Việt Nam. Bãi đẻ của cá nằm từ khu vực ngã tư giao tiếp 2 con sông Mêkông và Tonlesap, từ thị xã Kratie (Campuchia) trở lên đến thác Khone, nơi giáp biên giới Campuchia và Lào. Nhưng tập trung nhất từ Kampi đến hết Koh Rongiev thuộc địa giới 2 tỉnh Kratie và Stung Treng. Cá đẻ trứng dính vào giá thể thường là rễ của loài cây sống ven sông Gimenila asiatica, sau 24 giờ thì trứng nở thành cá bột và trôi về hạ nguồn. Trong nuôi vỗ sinh sản nhân tạo, mùa vụ thành thục và đẻ của cá thường sớm hơn trong tự nhiên từ 2 – 3 tháng. Cá thành thục và bước vào mùa vụ sinh sản nhân tạo từ tháng 3 và kéo dài đến tháng 7, tập trung vào tháng 4 – 5.

Thành phần hóa học và dinh dưỡng trong cá Basa

Các thành phần cơ bản có trong cá ba sa: nước, protein, Glucid, lipid, muối khoáng, vitamin. Có tỉ lệ khác nhau trong cá bộ phận phụ thuộc vào giống loài,hoàn cảnh sống, trạng thái sinh lý, giống đực, cái, mùa vụ, thời tiết…

Protein cấu trúc: chiếm khoảng 70 – 75% tổng lượng protein.

Protein tương cơ: chiếm khoảng 25 – 30% tổng lượng protein

Protein mô liên kết :chiếm khoảng 3 – 10% tổng lượng protein

Cá basa có giá trị dinh dưỡng cao vì thành phần dinh dưỡng chứa nhiều chất đạm, nhiều EPA và DHA ,ít cholesterol.

Về chất béo ,hàm lượng chất béo trong cá basa ít hơn so với thịt .Chất lượng mỡ lại tốt hơn.các acid béo chưa no hoạt tính cao chiếm từ 50% đến 70% trong tổng số lipid bao gồm: oleic, linoleic, linolenic, archidonic, klupanodonic….

Chất DHA (Docosahexaenoic Acid) giữ vai trò quan trọng quá trình sinh trưởng của tế bào não và hệ thần kinh ,có ảnh hưởng đến năng lực tìm tòi ,phán đoán,tổng hợp của của não.

Chất EPA (Eicosapentaenoic Acid) cũng có nhiều trong acid béo chưa bão hòa của cá và có tác dụng phòng chống bệnh xơ vữa động mạch và nhồi máu cơ tim.Ngày nay các nhà khoa học đã cho biết thêm hàm lượng Cholesterol trong cá Basa cực kỳ thấp,chỉ chiếm khoảng 0,02% thành phần thịt cá.

Biến đổi của cá sau khi chết

Sau khi ca chết thì cá mất khả năng đề kháng của cơ thể, và bị vi sinh vật tấn công xâm nhập vào cơ thịt cá phân hủy cá. Quá trình vi sinh vật làm ươn hỏng cá chia thành 4 giai đoạn như sau:

Giai đoạn tiết nhớt

Da: Sáng tự nhiên, không biến màu, dịch nhớt trong suốt.

Mắt: Lồi, giác mạc trong suốt, đồng tử đen, sáng.

Mang: Màu sáng, không có dịch nhớt.

Bụng: Săn chắc.

Cơ thịt: có tính đàn hồi cao.

* Lưu ý: Ở giai đoạn này cá rất tươi và có mùi đặc trưng cho loài.

2. Giai đoạn tê cứng

Da: Sáng, không bóng láng. Dịch nhớt hơi đục.

Mắt: Hơi lồi. Giác mạc hơi đục, đồng tử đen, mờ đục.

Mang: Nhạt màu, hơi có dich nhớt.

Bụng: Hơi mềm.

Cơ thịt: Kém đàn hồi.

* Lưu ý: Giai đoạn này cá đã mất mùi đặc trưng, nhưng chưa có mùi lạ.

3. Giai đoạn mềm hóa

Da: Hệ sắc tố đang trong quá trình biến màu và mờ đục. Dịch nhớt trắng đục.

Mắt: Phẳng. Giác mạc đục. Đồng tử mờ đục.

Mang: biến màu mất màu sáng,mang nhợt nhạt,dần chuyển màu.dịch nhớt xuất hiện nhiều.

Bụng: mềm, cơ thịt bụng có dấu hiệu bị vỡ ra.

Cơ thịt: Hơi mềm, kém đàn hồi , bề mặt mờ đục.

4. Giai đoạn thối rữa

Da: Hệ sắc tố mờ đục. Dịch nhớt mờ đục, da và thịt ít kết dính.

Mắt: Lõm ở giữa, giác mạc đục như sữa, có xuất hiện màu đỏ, đồng tử xám xịt.

Mang: biến sang màu hơi vàng.dịch nhớt nhiều.

Bụng: cá bị vỡ bụng.

Cơ thịt: Mềm nhũn,vẩy dễ dàng tách khỏi da, không còn sự kết dính giữa các lớp thịt.

Biện pháp bảo quản

Bảo quản bằng phương pháp lạnh. Ướp lạnh trực tiếp. Dùng nước đá: căn cứ vào lượng cá cần bảo quản, ta có thể chon một cái thùng cho phù hợp,tiến hành muối như sau: Thùng có lỗ thoát nước, ta cho một lớp đá xuống đáy thùng, sau đó cho lớp cá lên trên và cứ thế, ta rãi một lớp đá một lớp muối xen kẽ nhau cho đến khi đày thùng hoặc hết cá. Chú ý là lớp cá dày không quá 10cm, lớp đá dày không dưới 5cm.

Dùng NaCl với nồng độ cao để ức chế các quá trình tự hủy và quá trình sinh trưởng phát triển của các vi khuẩn gây thối.

Mô hình nuôi các Basa cho năng suất cao

Chuẩn bị ao nuôi

Bước đầu tiên trong quy trình nuôi cá basa là phải chuẩn bị ao. Thông thường, ao nuôi có diện tích lớn trên 500m2, và phải có nguồn nước để thay thế khi cần thiết. Bên cạnh đó, nguồn nước cung cấp cho ao phải sạch sẽ, không bị nhiễm phèn cũng như các loại chất thải khác. Ngoài ra ao cần được thông thoáng, không bị che phủ bởi cây cối, để cá có môi trường sống tốt nhất. Ở quy trình nuôi cá basa, trước khi tiến hành thả cá vào, cần phải dọn dẹp ao sạch, tát hết nước, vét bớt bùn ở đáy ao lên và để lại một lớp mỏng tầm 3-4cm. Đồng thời sửa sang lại bờ và phát quang hết cỏ xung quanh, rắc vôi đều lên bờ và đáy ao khoảng 3 đến 5 ngày để khử hết các chất độc. Cuối cùng bơm nguồn nước sạch từ từ vào ao sau đó thả cá vào. Đó là những bước cơ bản đầu tiên đối với quy trình nuôi cá basa.

Chọn giống trong quy trình nuôi cá basa

Bà con lưu ý trong quy trình nuôi cá basa, khi chọn giống cá basa để nuôi cần chọn những con khỏe mạnh, không bị bệnh, đang nhảy hoặc bơi lội nhanh, màu sắc tươi sáng và kích thước đều nhau. Kích cỡ cá basa giống khi chọn để thả nuôi thường từ 10-12 cm, nặng khoảng tầm 65-70 con/1kg. Bên cạnh đó còn phải chọn thời gian nuôi cá basa thích hợp. Ngoài ra, khi vận chuyển tránh để cá bị xây xát. Khi đem giống về nên tắm cho cá trong vòng 4-5 phút với nước muối ở nồng độ 2-3%. Chất lượng cá sau khi thu hoạch còn phụ thuộc vào giống cũng như thời gian nuôi cá basa. Cá thả ao thích hợp nhất với mật độ 15-20 con/m2, và có thể tăng mật độ lên 25 con/m2 khi đã thay nước. Trong những mùa vụ, thời gian nuôi cá basa thích hợp là vào tháng 2,3 để thu hoạch trước mùa mưa lũ.

Hiện nay có rất nhiều cơ sở sản xuất cá basa, vì thế cần tìm hiểu chọn những nơi có uy tín để có thể mua được giống cá tốt nhất.

Thức ăn trong mô hình nuôi cá basa hiệu quả

Với cá basa, mô hình nuôi cá basa hiệu quả có 2 loại thức ăn khác nhau có thể áp dụng là thức ăn công nghiệp và thức ăn tự chế biến.

Thức ăn công nghiệp:Hiện nay thức ăn công nghiệp ở các cơ sở chế biến có nhiều hàm lượng khác nhau, và tuỳ theo từng giai đoạn sinh trưởng của cá để cho cá ăn theo từng loại, cụ thể như sau:

Trong mô hình nuôi cá basa hiệu quả, 2 tháng đầu tiên nên cho cá ăn thức ăn có tỷ lệ đạm khoảng 30%.

Các tháng giữa, thức ăn của cá giảm bớt tỷ lệ đạm còn khoảng 25%. Bà con nên cho cá ăn thức ăn công nghiệp, bởi thức ăn này đã được chế biến đủ hàm lượng dinh dưỡng cần thiết đêt cá tăng trưởng nhanh hơn. Bên cạnh đó, quá trình vận chuyển, bảo quản cũng dễ dàng và không tốn công chế biến. Đây là những tiêu chuẩn cần thiết ởmô hình nuôi cá basa hiệu quả.

Hai tháng cuối cùng cho ăn thức ăn có hàm lượn đạm thấp nhất khoảng tầm 20-22%. Nên sử dụng thức ăn dạng viên nổi để cá dễ ăn hơn, mà lượng thức ăn dành cho cá basa nhẹ bằng 2-3 % trọng lượng cá.

Thức ăn tự chế biến: Những nguồn thực phẩm nông nghiệp có sẵn tại địa phương rất tiện lợi để chế biến thức ăn cho cá basa. Tuy nhiên cũng phải đảm bảo đủ chất dinh dưỡng theo yêu cầu trong từng giai đoạn sinh trưởng của cá, nhất là hàm lượng đạm. Khi chế biến, tất cả nguyên liệu đều phải xay nhuyễn rồi trộn với một số chất như bột cám, bột bắp hay bột mỳ, rồi nấu chín và vo thành từng viên nhỏ cho cá ăn. Mô hình nuôi cá basa hiệu quả phải đảm bảo chế độ ăn cho cá hợp lý.

Cách cho cá ăn

Trong mô hình nuôi cá basa hiệu quả, không phải cứ cho cá ăn càng nhiều càng tốt, mà nó cũng cần có mức độ và khoảng thời gian nhất định, để có thể hấp thụ tối đa chất dinh dưỡng. Thời gian cho ăn cũng cần thiết như thời gian nuôi cá basa. Mỗi ngày, nên cho cá ăn 2 lần vào buổi sáng (tầm 6 – 8 giờ) và buổi chiều (tầm 16-18 giờ). Lưu ý, không được cho cá ăn những thức ăn đã bị quá hạn hoặc bị nấm mốc, thiu thối…

Quản lý ao nuôi

Đối với yêu cầu trong quy trình nuôi cá basa, hàng ngày, bà con nên bỏ ra ít thời gian để kiểm tra kịp thời và xử lý các sự cố bất thường về ao nuôi như rò rỉ, sạt lở hay hang hốc … Đồng thời phải thường xuyên quan sát tình trạng của cá, nếu có hiện tượng cá nổi đầu hoặc chuyển màu trắng bệch phải xác định nguyên nhân để xử lý ngay. Hoặc nếu bị ngộ độc do nguồn nước thì phải thay nước một phần hoặc thay nước hoàn toàn để cải thiện môi trường sống cho chúng. Nếu cá bị bệnh thì phải xác định được bệnh để có phương pháp chữa trị. Nuôi cá trong ao không đơn giản mà cũng không quá phức tạp, bà con tham khảo về kỹ thuật nuôi cá basa trong ao để có thêm tư liệu áp dụng với đàn cá của mình.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Rô Phi Đơn Tính Thương Phẩm Năng Suất Cao!

Trong những năm gần đây, mô hình nuôi cá rô phi đơn tính đực được triển khai tại nhiều địa phương trên cả nước. Đây là loại cá thương phẩm được thị trường ưa chuộng và có đầu ra ổn định. Tuy nhiên để nuôi rô phi thành công thì bà con cần tuân thủ quy trình kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính sau đây.

Kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính Chuẩn bị ao nuôi:

Cải tạo ao nuôi: Việc cải tạo ao nuôi gồm các bước sau:

+ Tiến hành tháo cạn nước trong ao, bắt hết cá tạp, cá dữ, dọn sạch bèo, rác, cỏ. Tu sửa bờ ao và lấp kín các hang hốc là nơi trú ẩn của dịch hại.

+ Nếu đáy ao có bùn quá dày phải nạo vét bớt, chỉ để lại lớp bùn dày khoảng 15 – 20cm.

+ Bón vôi: Lượng vôi bột sử dụng khoảng 7-10 kg/100 m2 ao, ở vùng đất chua có thể tăng lên 15-20 kg/100 m2 ao. Vôi được vãi đều khắp đáy ao và xung quanh bờ ao, sau đó đảo đều để tăng tác dụng của vôi.

+ Phơi đáy ao: Phơi đáy ao khoảng 5 – 7 ngày, đến khi mặt lớp bùn nứt chân chim để tạo cho đáy ao thêm thoáng khí. Tuy nhiên ở vùng đất chua phèn không nên phơi đáy ao nhiều vì dễ làm xì phèn làm giảm pH đáy.

Chuẩn bị lấy nước trước khi thả:

+ Sau khi phơi đáy ao xong, cần bón lót phân để gây nuôi thức ăn tự nhiên cho cá. Liều lượng phân sử dụng như sau: 25 – 30kg phân hữu cơ (đã ủ mục với vôi) cho 100 m2 ao, đồng thời kết hợp phân xanh 10-15 kg/100m2. Cũng có thể kết hợp giữa phân hữu cơ với phân vô cơ, lượng phân vô cơ là 0,3 – 0,5kg/100m2 (dùng phân urê + phân lân theo tỷ lệ 2N:1P) kết hợp với 10 – 15kg phân chuồng.

+ Sau khi bón lót, tiến hành lấy nước vào ao. Tùy theo nguồn nước và mức độ dinh dưỡng, ta có thể lấy nước theo 2 cách:

* Cách 1: Lấy lượng 50 – 70cm nước rồi bón phân gây màu. sau đó mới lấy đủ nước vào.

* Cách 2: Lấy đủ nước vào ao sau đó mới bón phân gây màu

+ Bón phân gây màu nước: Phân hữu cơ 30 – 50kg/100m2 ao đã được ủ kĩ với 1 – 2% vôi. Phân xanh 30 – 50kg/100m2 ao.

Đối với ao khó gây màu có thể sử dụng thêm NPK với tỷ lệ 3:2:1, lượng dùng từ 0,3 -0,5kg/100m2.

+ Sau khi bón phân để khoảng 5-7ngày, đến khi nước có màu xanh nõn chuối thì ta có thể lấy thêm nước cho đủ và tiến hành thả giống

Các tiêu chuẩn môi trường trước khi thả giống:

+ Nhiệt độ: thích hợp nhất cho cá phát triển là 25 – 32 độ C

+ Độ mặn: 0 – 25%

+ pH: thích hợp cho cá phát triển từ 6.5 – 8.5

+ Oxy hoà. tan: Cá rô phi có thể sống trong hàm lượng ôxy thấp tới 1 mg/l và ngưỡng ôxy chết cá là 0,3-0,1 mg/l. Tuy nhiên, nếu hàm lượng ôxy hòa tan trong nước thấp kéo dài sẽ làm cá chậm lớn rõ rệt.

+ NH3: Ammonia rất độc cho cá nhưng cá rô phi có thể chịu đựng ammonia tốt hơn các loài cá khác dưới 20 mg/l.

Chọn và thả giống cá rô phi:

+ Chọn cá giống có ngoại hình cân dối, màu sắc tươi sáng, cá khỏe mạnh, bơi lội hoạt bát, phản ứng nhanh với tiếng động, không xây xát. vây vẩy hoàn chỉnh, không mất nhớt, không dị hình, không mầm bệnh, đồng đều kích cỡ.

+ Cá giống trước khi thả phải qua kiểm dịch sạch bệnh.

+ Mùa vụ thả cá rô phi đơn tính thường từ tháng 3-8

+ Kích cỡ giống: Cá giống phải đồng đều đảm bảo kích cỡ để khi nuôi đỡ bị hao hụt, kích cỡ: 6-8 cm.

+ Mật độ thả: 2-5 con/m2

+ Phương pháp thả: Cần cân bằng nhiệt độ và độ mặn trước khi thả giống. Trước khi thả cá ta phải để bao, túi chứa cá xuống ao lừ 15 – 20 phút. Sau đó thêm từ từ nước ao nuôi vào bao chứa cá, độ 5-10 phút cho cá quen dần với môi trường ao nuôi rồi dìm miệng túi xuống ao cho cá tự bơi ra. Nên thả cá giống vào buổi sáng hoặc chiều mát. Tránh thả cá vào buổi trưa hoặc lúc trời nắng gay gắt, cá thả sẽ bị hao hụt.

Thức ăn cho cá rô phi và cách cho ăn: *Thức ăn cho cá:

Có 2 loại thức ăn phổ biến

+ Thức ăn chế biến. Nơi không có điều kiện sử dụng thức ăn viên công nghiệp hoặc có sẵn nguyên liệu chế biến, gồm các nguyên liệu:

Cám: 20 – 30%

Tấm: 20 -30%

Rau xanh (nghiền nhỏ): 10 – 20%

Bột cá (bột ruốc): 30 – 35%

Bột đậu nành: 10 – 20%

Premix khoáng/ vitamin: 1 – 2%

Phối trộn các nguyên liệu để đạt hàm lượng Protein 20 – 40%, trộn đều các nguyên liệu đã nghiền nhỏ, nấu chín rồi ép viên bằng máy ép cám viên nổi 3A15Kw hoặc rải mỏng và phơi se mặt, sau đó cho cá ăn (rải một chỗ hoặc để vào sàn ăn).

Mời bà con theo dõi video sản xuất cám viên nổi với máy ép cám nổi 3A15Kw

+ Đối với thức ăn công nghiệp: Là thức ăn dạng viên nổi không tan trong nước. Giai đoạn đầu sử dụng thức ăn cao đạm (30 – 40 %), khi cá lớn (trên 300g/con) cho ăn thức ăn thấp đạm (20 – 25%).

*Cách cho ăn:

Quản lý, sức khỏe và các biện pháp nhằm tăng cường sức khỏe của cá khi thời tiết có diễn biến xấu:

+ Quan sát tình trạng hoạt động cá nuôi vào hai thời điểm sáng 4 – 6 giờ, chiều 14 – 16 giờ, phát hiện sớm những biểu hiện bất thường của cá như: Cá kém ăn hoặc bỏ ăn, bơi lờ đờ trên tầng mặt; da cá màu tối mất nhớt, trên thân cá xuất hiện các đốm đỏ, mang xuất huyết và tái xám, dính bùn, mắt lồi, hậu môn sưng đỏ…

+ Trong giai đoạn chuyển mùa, thời tiết thay đổi đột ngột dễ làm cho cá bị stress, tác nhân gây bệnh có điều kiện phát triển và xâm nhập vào vật nuôi. Để tăng cường sức khỏe cho cá bổ sung vitamin C trộn vào thức ăn cho cá với liều dùng thường xuyên cho cá 20-30mg/ 1kg cá /1 ngày, cho ăn liên tục 7-10 ngày.

Quản lý ao nuôi cá:

+ Theo dõi các yếu tố chất lượng nước (như ôxy hòa tan, pH, H2S…) và sự thay đổi đột ngột của môi trường để có biện pháp xử lý kịp thời:

Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển của cá:

Yếu tố

Mô tả

Khoảng thích hợp

Biểu hiện khi điều kiện xấu

Chú thích

Oxy hòa tan

(mg/lít)

Hàm lượng oxy trong nước

Lớn hơn 4

Cá nổi đầu ngớp khí trên mặt nước.

Cá chậm lớn

Nhiệt độ

(°C)

Nước nóng hay lạnh

25 – 32

Nước quá nóng cá sẽ nổi lên tầng mặt

Nhiệt độ cao dẫn đến thiếu oxy

pH

Chỉ mức độ phèn hoặc độ kiềm của nước

6 – 9

Nước bị phèn, phiêu sinh vật (tảo…) không phát triển

pH thấp làm tăng tính độc của kim loại như Kẽm, Đồng và Nhôm. pH cao làm tăng tính độc của khí NH3

Độ kiềm

(mgCaCO3/lít)

Chỉ khả năng hạ phèn của nước

25 – 250

Phiêu sinh vật phát triển kém, độ kiềm sẽ thấp

pH biến động lớn khi độ kiềm thấp

Khí độc NH3 (mg/lít)

Dạng độc của chất đạm trong nước

0,02

Cá chậm lớn

pH và nhiệt độ cao làm tăng tính độc của NH3

Nitrite

(mg/lít)

Một dạng độc khác của chất đạm trong nước

Nhỏ hơn 0,1

Cá chậm lớn

Hàm lượng Nitrite cao gây bệnh máu nâu

H2S (mg/lít)

Sinh ra ở đáy ao trong điều kiện thiếu oxy

Nhỏ hơn 0.0001

Nước có mùi trứng thối, cá chết hoặc chậm lớn.

Gây độc cho tất cả động vật thủy sinh

+ Tăng cường thay nước mới vào ao nuôi, định kỳ 01 tuần/lần, mỗi lần thay 1/3 – 1/2 lượng nước trong ao.

+ Bơm nước vào thời điểm từ 4 – 6 giờ sáng, đối với những ao có hiện tượng cá nổi đầu, để tăng ôxy hòa tan vào nước.

+ Vôi bột (CaCO3) bón định kỳ cho ao nuôi 10 ngày/lần, liều lượng 1-2 kg/100m2 để ổn định độ pH và diệt khuẩn.

+ Có thể định kỳ dùng một số thuốc sát trùng có tính ôxy hóa cao để khử một lượng khí độc sản sinh ra trong ao nuôi (Iodine, BKC, H2O2 …)

+ Sử dụng các chế phẩm sinh học để cải thiện chất lượng nước trong ao. Dùng định kỳ 10 ngày/lần hoặc khi thấy nước trong ao bẩn, ô nhiễm.

+ Hàng ngày kiểm tra bờ ao, cong, mương để phát hiện và kịp thời sửa chữa những chỗ hư hỏng.

Phòng và trị bệnh cho cá rô phi: Biện pháp phòng bệnh tổng quát cho cá:

+ Chọn con giống khỏe mạnh không mang mầm bệnh.

+ Nguồn nước cấp sạch không bị ô nhiễm.

+ Sử dụng thức ăn không mang mầm bệnh: Không dùng các loại thức ăn đã bị nấm mốc, kém chất lượng, hoặc các loại thực vật lấy ở vùng nước có nguy cơ nhiễm bệnh cao…

+ Ngăn chặn sự xâm nhập và tiêu diệt các sinh vật là ký chủ trung gian, là các sinh vật mang tác nhân gây bệnh như: các loại cá tạp, ốc, chim bói cá…

+ Tiêu diệt các tác nhân gây bệnh có sẵn ở trong ao nuôi trong công tác lấy dọn ao nuôi trước khi thả cá

+ Trong quá trình nuôi việc quán lý các yếu tố môi trường thích hợp và ổn định hết sức quan trọng.

Một số bệnh thường gặp:

* Bệnh xuất huyết:

– Dấu hiệu bệnh lý:

Hôn mê, mất phương hướng, cỏ thể tổn thương mắt: Viêm mắt, lồi mắt, chảy máu mắt, có các vết áp-xe (có thể có mủ).

Xuất huyết ở quanh miệng, gốc vây hoặc quanh hậu môn, lỗ sinh dục

Giai đoạn nặng, trong bụng cá có dịch (chảy ra hậu môn). Không co thức ăn trong dạ dày (cá bỏ ăn). Bệnh có thể lây cho người khi chế biến cá không vệ sinh.

– Tác nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Streptococcus thường tấn công vào hệ thống thần kinh trung ương nên cá bị bệnh có biểu hiện (bên ngoài).

– Phòng trị bệnh:

Bón vôi (CaO hoặc CaCO3), tùy theo pH môi trường, liều lượng 1 – 2kg/m3, 2 – 4 lần/tháng.

Dùng Erythromyxin: Trộn vào thức ăn từ 3-7 ngày, dùng 2-5 g/100kg cá/ngày. Có thể phun xuống ao nồng độ 1-2 ppm, sau đó sang ngày thứ 2 trộn vào thức ăn 4g/100kg cá, từ ngày thứ 3-5 giảm còn một nửa. Thuốc KN-04-12 cho ăn 4 g/1 kg cá/ngày và cho ăn 3-6 ngày liên tục. Vitamin C phòng bệnh xuất huyết: liều dùng thường xuyên cho cá 20-30 mg/1kg cá/1 ngày, cho ăn liên tục 7-10 ngày.

* Hội chứng lở loét:

– Dấu hiệu bệnh lý: Cá cỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, nổi lờ đờ, xuất hiện nhiều vết loét trên cơ thể làm cho cá chết, khi chết thường chìm xuống đáy.

– Tác nhân gây bệnh: Do một loạt các yếu tố vô sinh và hữu sinh nhưng nguyên nhân cơ bản chắn chắn là do tác nhân truyền nhiễm sinh học như: Vi khuẩn, virus, nấm và ký sinh trùng…

– Phòng và trị bệnh: Hiện nay vẫn chưa tìm được phương pháp chữa trị hữu hiệu đối với những bệnh do virus gây ra và do chưa rõ nguyên nhân chính gây nên dịch bệnh nên việc điều trị gặp nhiều khó khăn. Do đó không cần trị, duy trì chất lượng nước tốt sẽ giúp cá đề kháng với bệnh tật.

* Bệnh trùng bánh xe:

– Dấu hiệu bệnh lý: Màu sắc cá nhợt nhạt, thân cá có nhiều nhớt màu trắng đục, đuôi, vây bị xơ mòn, bơi lội không định hướng, thân cọ vào cây cỏ như bị ngứa.

– Tác nhân gây bệnh: Do trùng bánh xe Trichodina ký sinh ở da và mang cá, bệnh thường phát triển vào ngày trời không nắng, âm u hoặc mưa kéo dài, đặc biệt khi nước có độ đục và hàm lượng hữu cơ lơ lửng cao.

– Phòng trị bệnh:

Tắm cá: Dùng muối ăn NaCl với nồng độ 2-3% tắm cho cá 5-10 phút hoặc dùng CuSO4 (phèn xanh) với nồng độ 3-5 ppm (3-5g/m3 nước) tắm cho cá 5-10 phút.

Phun thuốc trực tiếp xuống ao: Dùng CuSO4 với nồng độ 0,5 – 0,7ppm (0,5 – 0,7 g/m3 nước).

* Bệnh nấm da (Nấm Thủy Mi):

– Dấu hiệu bệnh lý: Khi nấm mới kí sinh thì khó phát hiện, khi nấm đã phát triển nhiều trên cơ thể cá sẽ có những chùm màu trắng nhu cục bông gòn. Khi nấm đã phát triển sẽ khó điều trị. Cá bị ngứa, hay cạ cơ thể vào vật cứng trong ao nuôi, da cá trở nên sần hơn. Cá bị bệnh nặng sẽ lở loét, phần cơ thể tại khu vực này sẽ rời ra khỏi cơ thể. Bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa, nhiệt độ nước thấp 18 – 25 độ C.

– Tác nhân gây bệnh: Bệnh do nấm Saprolegnia và Achlya gây nên. Bệnh thường xuất hiện khi cá đã bị nhiễm một bệnh nào đó như bệnh đốm đỏ, bệnh do ký trùng, cá trị trầy xước, hoặc do thiếu dinh dưỡng, nhiệt độ nước giảm làm cá suy giảm sức đề kháng. Khi đó nấm sẽ bám vào cơ thể cá để gây bệnh.

– Phòng và trị bệnh:

Nuôi dưỡng cá tốt, cho ăn đầy đủ dinh dưỡng, giữ môi trường ao sạch sẽ, tránh cá bị xây xát khi đánh bắt.

Giữ ấm cho cá khi trời rét bằng cách đào ao sâu, trồng cây chắn gió trên bờ ao.

Chọn mua cá giống khỏe mạnh, tại các trại uy tín.

Bổ sung khoáng, vitamin, thuốc bổ vào khẩu phần ăn.

Dùng Iodine Complex For Fish phun trực tiếp xuống ao nuôi với liều 2-3ml/m3 nước. Mỗi tuần phun thuốc 2 lần.

Dùng muối ăn (NaCl) nồng độ 2-3% tắm cho cá 3-10 phút

Dùng sulfate đồng CuSO4 nồng độ 0,5g/m3 nước để tắm cá trong 30 phút.

* Bệnh nấm mang:

– Dấu hiệu bệnh lý:

Bệnh xâm nhập trực tiếp vào mang hoặc bào tử nấm xâm nhập vào ruột, sau đó vào mạch máu rồi đến mang để gây bệnh.

Mang cá bị loét, đứt rời các sợi mang, làm cá ngạt thở. Bệnh phát triển nhanh, chỉ trong vài ngày có thể lan toàn bộ số cá nuôi nếu ao dơ bẩn, tỷ lệ chết lên tới 50%.

– Tác nhân gây bệnh: Do nấm Branchiomyces gây ra. Ao hồ nước đọng có nhiều chất hữu cơ, tảo phát triển dày đặc, thả nuôi mật độ cao sẽ tạo điều kiện cho nấm phát triển và gây bệnh.

– Phòng và trị bệnh:

Sau khi thu hoạch phải tháo cạn nước, dùng vôi diệt trùng ao (7 – 10kg/100m2 ao), phơi đáy ao khoảng 1 tuần trước khi cho nước mới vào.

Bổ sung các loại thuốc, khoáng, vitamin để tăng cường sức đề kháng cho cá.

Cứ khoảng 2 tuần nên dùng một đợt thuốc kháng sinh như KANA-Ampicol, Coli-Neoflum, Kancoquine-ADE, Celi-Fac, Bioflum, F-2.Bio-flox, Enro-Colistin, Enrop-Ampotrim trộn vào thức ăn, cho ăn liên tục trong 3 ngày

Cần bón thêm vôi nung Ca(OH)2 để nâng pH của nước ao lên 8,5-9,0, tương đương liều lượng 2kg/100m2.

Cho cá ăn vừa phải để tránh làm dơ nước ao.

Hòa tại Sulfat đồng (CuSO4) vào nước rồi tạt đều khắp ao với liều 0,5 – 0,7ppm, tương đương 0,5-0,7 g/m3 nước. Với phương pháp điều trị trên, thường sau một tuần cá sẽ khỏi bệnh.

* Bệnh rận cá:

– Dấu hiệu bệnh lý: Rận cá thường ký sinh ở vây, mang cá rô phi làm cho da cá bị viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng khác xâm nhập, vì vậy nó thường cùng lưu hành với bệnh đốm trắng, bệnh đốm đỏ, lở loét nên dẫn đến làm cá chết hàng loạt. Cá bị Caligus ký sinh có cảm giác ngứa ngáy, vận động mạnh trên mặt nước, bơi lội cuồng dại, cường độ bắt mồi giảm.

– Tác nhân gây bệnh: Rận cá Caligus sp.

– Phòng trị bệnh:

Dùng KMnO4 nồng độ 3-5ppm (3-5g/m3) hoặc chlorin nồng độ 1ppm (1g/m3) phun xuống ao.

Dùng formalin nồng độ 20-25 ppm (20-25ml/m3) phun xuống ao.

Thu hoạch cá rô phi Thời điểm thu hoạch

– Thời gian nuôi: 5-6 tháng

– Kích cỡ đạt: 0,5 – 0,6 kg/con.

+ Để hạn chế mùi bùn, trước khi thu hoạch 1-2 tuần nên tích cực thay nước sạch để nâng cao chất lượng thịt cá, hạn chế được hôi mùi bùn.

+ Trước khi thu hoạch cá cần chuẩn bị đủ dụng cụ và vật liệu (tấm bạt, rổ, xô nhựa, thùng cách nhiệt, nước sạch, đá sạch, giai, lưới…), tùy theo sản lượng cá thu hoạch mà bố trí nhân lực cho hợp lý.

Phương pháp thu hoạch:

+ Phương pháp thu toàn bộ: Tháo 30% lượng nước trong ao, dùng lưới vét có chiều dài tối thiểu bằng chiều dài 1 cạnh bờ ao để kéo thu cá. Chỉ kéo thu cá trên từng phần diện tích ao, khi thu được phần lớn số lượng cá trong ao thì mới vét toàn bộ diện tích ao, sau đó bơm cạn, thu nốt số còn lại.

+ Phương pháp thu tỉa: Tháo cạn nước 40-50cm, kéo lưới thu tỉa cá lớn. Những con còn nhỏ thì giữ lại nuôi tiếu trong thời gian ngắn nữa sẽ cho kích cỡ thu hoạch vì lúc này mật độ cá trong ao thưa nên cá lớn rất nhanh.

Gia Lai: Triển Vọng Từ Mô Hình Nuôi Cá Chình Thương Phẩm

Mô hình nuôi cá chình thương phẩm trong bể xi măng hiện còn rất mới mẻ ở Gia Lai. Tuy nhiên, những thành công bước đầu của ông Đặng Phùng Minh (tổ 6,…

Mô hình nuôi cá chình thương phẩm trong bể xi măng hiện còn rất mới mẻ ở Gia Lai. Tuy nhiên, những thành công bước đầu của ông Đặng Phùng Minh (tổ 6, phường Ngô Mây, thị xã An Khê) đã mở ra nhiều triển vọng cho việc phát triển mô hình này.

Nói về cơ duyên với nghề nuôi cá chình, ông Đặng Phùng Minh cho biết: “Trước đây, tôi là tài xế xe chở mía. Một lần xem chương trình “Nhà nông làm giàu” trên ti vi, tôi thấy mô hình nuôi cá chình rất có hiệu quả. Vì vậy, tôi quyết định khăn gói vào Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản Nha Trang tham gia khóa tập huấn về kỹ thuật nuôi cá chình trong bể xi măng. Sau khóa tập huấn, tôi mạnh dạn đầu tư hơn 1 tỷ đồng khoan giếng lấy nước sạch, xây 400 m2 bể xi măng và đào 200 m2 ao để nuôi cá chình và cá lóc”.

Đáng chú ý, ở thời điểm đó, mô hình nuôi cá chình trong bể xi măng còn quá mới mẻ tại Gia Lai và tỷ lệ người nuôi thành công khá thấp. Thế nhưng, ông Minh vẫn mạnh dạn đầu tư nuôi và quyết tâm làm giàu từ con cá chình. Lần nuôi thí điểm, ông thả 1,2 kg giống, mỗi con có trọng lượng 1 gram (giá mua là 130.000 đồng/con) trong bể chính có diện tích 100 m2, xung quanh là các bể dự bị nuôi cá lóc bông Ấn Độ và cá lóc thường. Sau hơn 1 tháng, nhờ tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, điều kiện vệ sinh môi trường, đàn cá chình đã có trọng lượng trung bình 2 gram/con. “Do mới nuôi thử nghiệm, để tránh rủi ro, cán bộ ở Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản Nha Trang khuyên tôi chọn mua cá giống có trọng lượng ổn định, khoảng 1 gram/con để dễ chăm sóc, giảm tỷ lệ hao hụt. Sau 6 tháng, cá lớn dần phải tách đàn, phân loại để dễ chăm sóc, đảm bảo cho cá phát triển tốt”-ông Minh nói.

Được biết, cá chình là loài dễ nuôi, ít bệnh hơn các loại cá da trơn khác. Loại giống 10 con/kg có thể đạt trọng lượng 1-1,5 kg/con sau 1 năm nuôi thương phẩm. Tuy nhiên, cá chình đòi hỏi phải được chăm sóc theo một quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt. Cụ thể, nguồn nước phải được lọc kỹ các tạp chất, lắng trong trước khi cho vào bể nuôi; bể nuôi phải đảm bảo không được thiếu nước hay thừa nước, oxy trong bể xi măng cũng không được thừa hoặc thiếu. Cứ 3 ngày phải tiến hành thay nước bể một lần để hạn chế tảo sinh sôi nảy nở với mật độ lớn gây thiếu hụt nguồn oxy cho cá. Mỗi ngày cho cá ăn vào tầm 7 giờ tối, sau đó phải rửa sạch giá thức ăn để loại bỏ cặn bã, thức ăn dư thừa làm bẩn nước, gây độc tố. Tuy nhiên, ông Minh cũng cho biết, muốn đưa chế độ dinh dưỡng cao cho cá, cần áp dụng các biện pháp tổng thể khác như sử dụng máy quạt khí và tuân thủ chặt chẽ việc quản lý môi trường nước trong bể nuôi. Vì thế, máy quạt khí cũng tự tay ông sáng chế nên lượng oxy trong bể lúc nào cũng ổn định cho cá.

Trong nuôi trồng thủy sản, chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ khá cao. Vì vậy, việc nắm bắt giá trị dinh dưỡng của từng nguồn nguyên liệu và phương thức phối chế thức ăn là cần thiết nhằm sử dụng có hiệu quả và kinh tế nhất trong nuôi cá. Để đạt hiệu quả cao nhất, ông Minh tự tay chế biến thức ăn cho cá. Hàng ngày, ông mua cá rô phi từ các lòng hồ thủy điện ở huyện Kông Chro đem về ướp muối, sau đó cho vào tủ lạnh để với nhiệt độ từ -5 tới 0 độ C. Ông lấy lúa xay thành bột rồi trộn với cá xay nhuyễn làm thức ăn cho cá. Khi được hỏi về cách chế biến thức ăn này, ông Minh cho biết: “Tôi chế biến nguồn thức ăn này là giảm được một nửa chi phí so với thức ăn công nghiệp hiện có. Thức ăn do mình tự sáng chế đã tích hợp sẵn thuốc ngừa bệnh nên cá không mắc các bệnh đường ruột, bệnh gan. Tỷ lệ cá sống đạt cao”.

Sau 1 năm nuôi cá, ông Minh đã mở công ty bán sản phẩm của mình. Tất cả sản phẩm đều được kiểm định tại Chi cục Quản lý Chất lượng Nông-Lâm sản và Thủy sản (Sở Nông nghiệp và PTNT) và hoàn toàn không phát hiện các hàm lượng kim loại nặng như: chì, cadimi, asen hoặc thủy ngân. Trước đó, tháng 12-2017, cá chình thương phẩm của ông Minh đã có mặt tại Chợ phiên nông sản an toàn tổ chức tại TP. Pleiku. “Tự tin vào tay nghề của mình nên năm nay tôi sẽ mở thêm một ao nữa. Với giá bán 480.000-500.000 đồng/kg như hiện nay, sau một vụ nuôi 12 tháng có thể thu lãi từ 230.000 đồng đến 260.000 đồng/con”-ông Minh cho biết.

Cập nhật thông tin chi tiết về Mô Hình Nuôi Cá Dìa Thương Phẩm Cho Năng Suất Cao Ở Quãng Ngãi trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!