Bạn đang xem bài viết Kỹ Thuật Nuôi Cá Nheo Thương Phẩm được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Ngày đăng: 2015-12-21 09:39:33
Đưa giống cá nheo có giá trị kinh tế cao vào nuôi tại hộ gia đình, qua đó so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình với các mô hình nuôi thủy sản khác trên địa bàn và đề xuất nhân rộng mô hình nếu có hiệu quả kinh tế cao
1. Chuẩn bị ao nuôi và cung ứng giống, chế phẩm sinh học cho cá nheo.
– Ao nuôi cá của hộ gia đình ông Nguyễn Đức Cơ có chất đất là đất thịt, ao không bị rò rỉ nước (đất thịt dễ gây mầu và giầu chất dinh dưỡng); ao gần nguồn nước để giúp cho việc cấp thoát nước dễ dàng; có đường giao thông thuận tiện giúp cho việc vận chuyển vật tư, trang thiết bị, con giống, thức ăn và tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng. – Ao nuôi có diện tích 5.000m2, có mức nước sâu 1,5-2,5m. thuận lợi cho việc cấp thoát nước. Trước khi thả cá nuôi, ao được thực hiện theo quy trình hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. – Chuyển giao giống: Con giống khỏe mạnh, không dị tật, có sức sinh trưởng và phát triển tôt. Chế phẩm cung ứng đảm bảo đủ số lượng, chất lượng theo quy định.
2. Kỹ thuật chăm sóc cá nheo:
– Cá Nheo Mỹ có thể nuôi ở hình thức nuôi ao hoặc nuôi lồng. Hình thức nuôi ao, có thể thả ghép thêm cá Chép, cá mè trắng để tăng hiệu quả kinh tế và tận dụng nguồn thức ăn thừa của cá Nheo Mỹ.
– Nuôi ghép, đối tượng nuôi cá nheo làm chính. Mật độ nuôi 0,6 con/m2. Mẫu thả 10con/kg. – Thức ăn là một trong những yếu tố quyết định đến năng xuất cá nuôi, thức ăn có chất lượng ổn định không những đảm bảo cho năng xuất cao mà còn rút ngắn thời gian nuôi, chủ động thu hoạch vào thời điểm giá cao cho hiệu quả kinh tế cao trên mỗi đơn vị diện tích nuôi. – Chế độ cho ăn và khẩu phần ăn phụ thuộc vào kích cỡ cá, lượng thức ăn công nghiệp có bổ sung thức ăn tinh dao động từ 2-8%… Thức ăn chia làm 02 phần, cho cá ăn vào buổi sáng (8-9 giờ) và buổi chiều (16-17 giờ). Cần cho ăn đúng giờ để tạo phản xạ cho cá ăn. – Thường xuyên theo dõi mực nước trong ao để luôn duy trì mực nước phù hợp, kiểm tra màu nước, mùi nước ao, nhiệt độ, độ pH; thường xuyên quan sát hoạt động bơi lội và khả năng bắt mồi của cá để nắm bắt tình hình sức khoẻ của cá. – Định kỳ hàng tháng kiểm tra tốc độ tăng trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức ăn và có chế độ chăm sóc hợp lý.
Từ khóa: mô hình nuôi cá nheo thương phẩm trong ao đất, hướng dẫn cách cá nheo mỹ thương phẩm, quy trình nuôi cá nheo thương phẩm, kinh nghiệm nuôi cá nheo mỹ cho hiệu quả kinh tế cao, cung cấp giống cá nheo mỹ, mua bán cá nheo mỹ
TIN TỨC KHÁC :
Kỹ Thuật Nuôi Cá Kèo Thương Phẩm
Ao nuôi cá kèo cũng giống như ao nuôi các loài cá khác, là những ao đất thông thường. Ở vùng ven biển có thể sử dụng ao nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh hoặc ao nuôi quảng canh để nuôi luân canh cá kèo. Vùng làm muối có thể luân canh nuôi cá kèo trong ruộng muối vào mùa mưa khi nước bị giảm độ mặn không sản xuất được muốỉ.
Cần lựa chọn ao có diện tích hợp lý để nuôi cá kèo. Ao có diện tích quá nhỏ thì việc đầu tư không lớn nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Nếu ao quá lớn sẽ phải đầu tư lớn và cũng khó khăn trong công tác quản lý môi trường ao nuôi, chăm sóc cá nuôi và nhất là khó khăn khi thu hoạch. Từ những kinh nghiệm thực tế nuôi cá kèo ở các địa phương cho thấy, ao nuôi có diện tích từ 1.000 – 2.000 m2 là thích hợp nhất.
Trước khi tiến hành thả cá giống nuôi, phải chuẩn bị và cải tạo lại ao thật kỹ, bao gồm các khâu sau đây:
– Tát cạn ao, diệt hết cá tạp, cá dữ như cá chẽm, cá nâu, cá rô phi và tất cả các loài cá và địch hại khác. Nên dùng rễ cây thuốc cá ( Derris elliptica Benth) để diệt tạp, với liều lượng 1 kg rễ tươi cho 100 m3 nước ao. Theo Bùi Quang Tề, dây thuốc cá có hoạt chất chính là Rotenon (hay Tubotoxin; Derris), chất này có tác dụng độc đối với động vật máu lạnh, rất độc với cá nhưng không độc với người và các loài giáp xác (như tôm, cua) Để nước trong ao còn độ sâu 8-10 cm và tính toán thể tích nước có trong ao, rễ cây thuốc cá đập dập, ngâm trong nước từ 5-6 giờ rồi vắt lấy nước, hòa loãng, sau đó té đều khắp mặt ao. Tất cả cá sẽ chết hết và vớt đi rồi tháo hết nước hoặc bơm cạn ao để phơi đáy.
– Cày hoặc xới đáy ao một lớp đất mỏng (5-7 cm) để đáy ao thoáng khí, tạo điều kiện cho sinh vật trong đáy ao phát triển để có nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.
– Bón lót cho ao bằng phân hữu cơ (ủ mục, hoai) liều lượng 20 – 30 kg/100 m2 ao.
– Rải vôi bột xuống đáy ao để hạ phèn, diệt tạp, diệt các mầm bệnh, lượng dùng 8-12 kg/100 m2, sau đó có thể xới đảo bùn đáy để hòa trộn vôi và phân hữu cơ.
– Phơi đáy từ 2 – 3 ngày. Những ao ở vùng bị nhiễm phèn thì không nên phơi đáy ao.
Những ao đã nuôi tôm sú trước đó thì không cần bón lót phân hữu cơ, chỉ nên diệt tạp và cá dữ bằng rễ cây thuốc cá, rải vôi để diệt tạp, hạ phèn và diệt mầm bệnh trong đáy ao.
– Lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc để tránh địch hại và cá dữ, cá tạp lọt vào ao ăn hại cá và tranh giành thức ăn với cá nuôi. Khi mức nước đạt khoảng 0,3 – 0,4 m thì có thể thả cá giông. Những ngày sau đó tăng dần mức nưóc ao cho đến khi đạt theo yêu cầu
Mùa vụ nuôi
Hiện nay các địa phương đang nuôi cá kèo thường dựa vào điều kiện ao và mùa vụ xuất hiện giống tự nhiên để tiến hành vụ nuôi. Giống tự nhiên thường bắt đầu có từ tháng 4 – 5 kéo dài đến tháng 8 – 9. Tuy vậy ngư dân vẫn khai thác cá giống tự nhiên gần như quanh năm và kích cỡ cá giống cũng lớn nhỏ không đều ở các tháng ngoài vụ giống chính. Mùa vụ nuôi cá kèo từ tháng 4-5 khi bắt đầu có con giống tự nhiên. Ngoài ra người nuôi còn sử dụng ao nuôi tôm để nuôi cá kèo sau khi nuôi tôm vụ 1 (vào tháng 7-8).
Kinh nghiệm ở một số địa phương cho thấy nếu nuôi sớm vào tháng 4-5 thì cá phát triển tốt, nhất là các tháng đầu tiên điều kiện môi trường thuận lợi cho cá do nhiệt độ cao nhưng không biến động nhiều, chưa có mưa nhiều nên độ mặn và các yếu tố của nước ít biến động. Nếu nuôi vào các tháng 7-8, thời tiết và môi trường có nhiều biến động do mưa lớn, độ mặn giảm, nhiệt độ thường thay đổi và chênh lệch lớn và nhất là vào các tháng cuối năm nhiệt độ hạ thấp nên ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cá. Ớ một số vùng ven biển Đồng bằng Sông Cửu Long vào cuối mùa mưa, độ mặn ỏ các ao nuôi có khi xuống rất thấp, thậm chí gần như nước ngọt hoàn toàn. Vào những thời điểm này cá rất dễ bị nhiễm bệnh và chết, dẫn đến tình trạng hao hụt số lượng cá và tỷ lệ sống thấp khi thu hoạch.
Kích cỡ và mật độ thả giống nuôi Kích cỡ cá giống
Nên chọn cá giống cỡ 3 – 5 cm hoặc 4 – 6 cm, cá giống ương nuôi trong ao là tốt nhất vì sẽ có kích cỡ đồng đều hơn, khỏe hơn vì đã thích nghi với điều kiện trong ao. Chọn cá khỏe mạnh, hoạt động nhanh nhẹn, không bị nhiễm bệnh, màu sắc tươi sáng, có nhiều nhớt.
Kinh nghiệm ở nhiều người nuôi nếu thả con giống còn quá nhỏ không qua ương nuôi thì tỷ lệ hao hụt rất lớn, có khi tới 60 – 70%, do cá yếu và chưa thích nghi với điều kiện môi trường mới trong ao nuôi. Ngoài ra tỷ lệ lẫn giống tạp khác còn cao do quá trình ép lọc vẫn chưa loại bỏ hết, nên có tình trạng cá tạp tranh dành thức ăn của cá nuôi, làm giảm hiệu quả nuôi
Mật độ thả nuôi
Tùy theo điều kiện ao, khả năng quản lý chăm sóc và cỡ cá, có thể thả nuôi với mật độ 30 – 60 con/m2, trung bình 50 con/m2. Nếu cỡ cá nhỏ (3 cm) nên thả mật độ cao hơn so với cỡ cá lớn (5-6 cm) để trừ hao hụt trong khi nuôi. Nếu điều kiện quản lý và kiểm soát chất lượng nước chủ động, có thể tăng mật độ nuôi lên cao hơn 60 con/m2, Một số hộ nuôi bống kèo còn có kinh nghiệm thả với mật độ ban đầu rất cao (hơn 100 con/m2), sau hai tháng nuôi thì san thưa với mật độ 50 con/m2. Tuy nhiên biện pháp thả dày rồi san thưa chỉ nên áp dụng với những hộ có các ao nuôi gần nhau để chuyển cá nhanh chóng, tránh được hao hụt trong khi đánh bắt, vận chuyển và san thưa cá.
Chăm sóc và quản lý ao nuôi Thức ăn cho cá
Cá kèo có tính ăn tạp, ngoài thức ăn tự nhiên có trong ao như phù du động thực vật, sinh vật đáy, rong tảo sống bám, mùn bã hữu cơ… cá còn ăn được các thức ăn do con ngưòi cung cấp như thức ăn chế biến và thức ăn viên công nghiệp.
Để duy trì thức ăn tự nhiên, phải định kỳ bón thêm phân hữu cơ đã ủ hoai 10-15 kg/100m2/tuần hoặc 100 – 150 gam phân vô cơ (DAP, NPK)/tuần. Thức ăn chế biến gồm cám gạo (60 – 70%) và bột cá (30 – 40%) được trộn đều và nấu chín, trộn thêm premix khoáng và vitamin A,D,E,C (tổng cộng 0,2 – 0,3% tổng trọng lượng thức ăn). Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 25% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3, 4 và 18% cho hai tháng cuối. Khẩu phần ăn 4-6% trọng lượng thân/ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần, cho ăn vào buổi sáng và chiều lúc trời mát.
Cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp cần phải chọn loại kích cỡ thức ăn phù hợp với độ lớn và kích thước miệng để cá có khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả nhất. Hàm lượng đạm trong thức ăn cũng dao động từ 18 – 25%, giảm dần theo tháng tuổi của cá. Khẩu phần ăn thức ăn viên công nghiệp từ 1 – 1,5% trọng lượng thân/ngày và cho cá ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.
Ngoài ra trong thời gian nuôi, thức ăn nên có bổ sung thêm một số loại men tiêu hóa nhằm kích thích cho cá ăn ngon và tiêu hóa thức ăn tốt hơn, tránh được hiện tượng cá bị chướng bụng, đầy hơi.
Quản lý ao nuôi a- Quản lý chất lượng nước
Nước ao cần được chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi. Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá giống, mức nước ao cần đạt 0,4 – 0,5 m, sau đó tiếp tục dâng từ từ, mỗi tuần cao hơn 0,2 m cho đến khi mức nước đạt tối đa.
Theo dõi mực nước hàng ngày, kiểm tra các yếu tố hóa lý của nước ao như nhiệt độ nước, pH, độ trong, độ mặn. Kiểm tra bờ và cống ao đề phòng bờ bị lỗ rò rỉ do cua còng đào hang, lưới chắn bị thủng do bị mục hoặc cua còng kẹp làm rách lưới. Vào mùa mưa, độ mặn nguồn nước cấp và nước trong ao có xu hướng giảm dần, chú ý độ mặn của nước cấp cho ao phải tương đương hoặc không quá chênh lệch với độ mặn của nước trong ao để tránh cá bị sốc. Độ mặn của nước ao nuôi cá bống kèo, dù vào mùa mưa cũng không nên để quá thấp dưới 3%o. Định kỳ mỗi tuần thay nước 1 lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước ao. Nếu nước ao bị nhiễm bẩn, màu nước xanh quá đậm hoặc chuyển màu nâu, có mùi hôi thì cần phải thay ngay nước mái trong sạch.
Hình 7. Chài kiểm tra cá nuôi
b- Phòng trừ địch hại
Có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn hại cá bống kèo như chim cồng cộc, rắn nước biển (con đẻn), cá nâu, cá rô phi, cá bống mọi, bống cát… Chim cồng cộc và rắn đẻn có thể lặn trong ao săn cá và ăn hại cá đáng kể, cá nâu cũng bắt ăn thịt cá bống kèo; cá rô phi bắt ăn cá kèo nhỏ và dành thức ăn của cá nuôi; cá bống mọi, bống cát cũng dành thức ăn của cá bống kèo.
Để phòng trừ địch hại, khâu quan trọng khi cải tạo ao là phải tìm diệt hết mọi cá tạp cá dữ, khi lấy nước vào ao lúc cấp nước lần đầu hoặc các lần thay nước định kỳ, phải chắn lọc kỹ, không để cá nâu và rô phi, bống mọi, bống cát nhỏ lọt vào ao qua đường cấp nước. Đối với chim cồng cộc, nên đặt các bù nhìn trên bờ ao hoặc treo dây ngang dọc trên mặt ao có gắn các ống bơ (lon) sữa bò nhằm tạo ra tiếng kêu để xua đuổi chim. Có thể dùng ná (giàng thun) để bắn chim và đuổi chim cũng có hiệu quả.
Ngoài ra, để bắt các loài cá bống cát. bống mọi, có thể điều tiết mực nước trong ao (dâng cao sau đó hạ thấp 5-10 cm) khi đó các loại cá bống mọi, bống cát có thể nằm lại ở phần mái bờ khi nước đã rút và dùng vợt thu gom.
Kỹ Thuật Nuôi Cá Tra Thương Phẩm
Ao nuôi nên chọn những nơi gần sông rạch lớn để có nguồn nước sạch, tiết kiệm chi phí bơm nước, ít bị ảnh hưởng của lũ lụt, thuốc trừ sâu và ô nhiễm hữu cơ, hóa chất…
Diện tích ao từ 500 m2 trở lên, độ sâu trên 3m, ao có hình chữ nhật, hình vuông hoặc hình tròn. Tuy nhiên ao nuôi có hình chữ nhật là thích hợp cho việc chăm sóc và thu hoạch.
Ao nên có cống cấp và cống thoát riêng, đáy ao có lớp bùn dày không quá 20 cm và nghiêng về phía cống thoát.
Ao có kết cấu nền đất tốt, ít bị nhiễm phèn. Nên chọn nơi đất sét hoặc sét pha cát để làm ao nhằm tránh rò rỉ nước và cá phá bờ ra ngoài. Bờ ao phải được làm kiên cố để phòng tránh lũ lụt và mầm bệnh lây lan từ ao khác.
Ao nuôi nên gần nhà để dễ quản lý và chăm sóc.
Cải Tạo Ao Nuôi
Cải tạo ao là bước đầu quan trọng nhất trong nuôi cá . Cải tạo kỹ sẽ giúp người nuôi nâng cao tỉ lệ sống và hạn chế được nhiều bệnh cho cá trong quá trình nuôi. Qui trình này được xem như là qui trình cải tạo ao chung, có thể được ứng dụng cho tất cả các loài cá khác.
Qui trình cải tạo ao nên được tiến hành theo các bước sau:
Tháo cạn nước ao sau khi thu hoạch cá.
Sên vét và hút sình đáy ao.
Phơi đáy ao 3 -5 ngày (ao không có phèn tiềm tàng).
Nếu ao nuôi có nhiều phèn tiềm tàng thì nên tháo nước còn 5 cm trên đáy ao rồi sau đó bón vôi.
Sử dụng vôi CaCO3 (đá vôi) hoặc Ca(OH)2 (vôi tôi), rải đều khắp đáy ao, những vũng nước và bờ ao.
Bảng 1: Lượng vôi bón theo độ pH của đất và nước
Sử dụng lưới nylon (lưới giai) cao khoảng 40 cm rào chắn quanh ao.
Lấy nước vào ao lúc thủy triều cao nhất, nước qua cống hoặc ống bọng phải được lọc kỹ bằng lưới.
Sát Trùng Nước Trước Khi Thả Cá
Sau khi lấy nước vào ao được 2 ngày, tiến hành hòa hóa chất diệt khuẩn tạt xuống ao để diệt các loài vi rút, vi khuẩn và nấm có trong nguồn nước.
Chọn Con Giống:
Cá tra phân đàn rất lớn trong thời gian nuôi. Chính lý do trên, nên chọn đàn cá cùng ngày tuổi, cùng kích thước là điều hết sức quan trọng, vấn đề này sẽ quyết định năng suất nuôi sau này.
Nên chọn mua cá giống ở những nơi tin cậy; cá có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh, không dị hình,không bị trầy xướt, bơi lội nhanh nhẹn, không có triệu chứng bệnh. Con giống có chiều cao 2 phân trở lên là thích hợp cho thả nuôi thương phẩm. Cũng cần phải áp dụng kĩ thuật ương cá giống để chất lượng cá thương phẩm sau này đạt hiệu quả cao.
Mật độ cá thả nuôi tùy thuộc vào quan điểm của từng người, tuy nhiên mật độ khoảng 40 con / m2 là thích hợp. Khi thả nuôi với mật độ cao, điều cần lưu ý là hàm lượng oxy trong ao thấp, đặc biệt vào lúc sáng sớm. Bên cạnh đó, nguồn nước trong ao thường xuyên bị ô nhiễm nặng do sự tích tụ của phân cá và thức ăn dư thừa làm cá chậm lớn và dễ bị nhiễm bệnh.
Thức Ăn Và Quản Lý Thức Ăn
Có hai loại thức ăn đang được người nuôi sử dụng là thức ăn công nghiệp và thức ăn chế biến (người nuôi tự phối chế). Ưu điểm của loại thức ăn tự chế biến là giá thành rẻ do sử dụng các nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Thông thường thức ăn cho mô hình nuôi thâm canh có hàm lượng đạm dao động từ 20 – 30%. Lượng thức ăn cho cá tra dao động từ 3 – 15% / ngày / trọng lượng cá, phần trăm thức ăn tùy vào kích thước của cá. Lượng thức ăn còn được điều chỉnh dựa trên điều kiện thời tiết và tình trạng sức khỏe của đàn cá trong ao.
Số lần cho cá ăn sẽ tùy vào từng giai đoạn phát triển của cá nuôi, dao động từ 2 -34 lần / ngày
Chăm Sóc Và Quản Lý Ao Nuôi
Hàng ngày nên kiểm tra cống bọng, bờ bao quanh ao, phát hiện những nơi rò rỉ.
Chế độ thay nước là một trong những công việc hết sức quan trọng. Nên thay nước mỗi ngày khoảng 20 – 50 % lượng nước trong ao.
Sau khi ăn cá sẽ cần oxy nhiều hơn, vì vậy việc bơm nước mới vào ao khoảng 30 phút trong lúc này là cần thiết giúp cá hô hấp và tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
Trong mùa mưa lũ, nước nguồn đổ xuống rất đục (nước quay), mang theo nhiều mầm bệnh, thuốc trừ sâu và ô nhiễm hữu cơ dễ gây bệnh cho cá trong ao. Để phòng tránh, khuyến cáo nên thay nước có kiểm soát và phối hợp kiểm tra hàm lượng oxy mỗi ngày lúc 6 giờ sáng. Khi oxy thấp hơn 4 ppm (mg / L) cần bơm nước mới vào ao. Ngoài ra có thể thay nước lúc nước cường ( rằm và ba mươi), mỗi ngày thay 30- 40% lượng nước trong ao.
Một Số Lưu Ý Khi Nuôi Cá Tra Thương Phẩm Trong Ao Đất
Vấn đề thường gặp trong ao nuôi cá thương phẩm
Kỹ Thuật Nuôi Cá Nheo
– Chu kỳ nuôi cá nheo miệng rộng là một năm thì cá đạt kích cỡ thương phẩm để thu hoạch. 3. Thức ăn và cách cho cá ăn. – Trong nuôi cá Nheo miệng rộng thường dùng 2 loại thức ăn chủ yếu là thức ăn thuần túy động vật và thức ăn chế biến tổng hợp. + Thức ăn thuần túy động vật: Bao gồm cá tạp nhỏ, cá giống của các loại cá, cùng với các loại thức ăn sống như giun nước và giun đất… các loại thịt ốc bươu, ốc sên, nội tạng gia súc và gia cầm. Hệ số thức ăn đối với từng loại thức ăn như sau: Cá tạp nhỏ là 2,7 – 5,0, thịt ốc buơu 13 – 18, giun đất sống 8 – 10, phổi heo, ruột bò 5,5 – 7,5. + Thức ăn chế biến tổng hợp: Đạm thô 36 – 42%, chất béo thô 6 – 10 %, đường 22 – 28%, chất xơ 4 – 6%. Nguyên liệu chế thức ăn tổng hợp trừ các loại bột cá, nhộng tằm ra, còn có bột ngô vàng, bột bột khoai tây. – Để biết lượng thức ăn cho cá ăn hằng ngày có phù hợp không, cần kiểm tra lượng thức ăn và thời gian cá ăn hết, tỷ lệ sinh trưởng của cá đã đạt đến chỉ tiêu nhất định và cá có khỏe mạnh hay không. Nếu cho cá ăn quá liều lượng gây nên hiện tượng thời gian bắt mồi kéo dài, có thức ăn thừa, lượng mỡ trong cơ thể cá tích lũy quá nhiều. Nếu cho ăn không đủ dẫn đến cơ thể cá gầy đi và kích cỡ không đồng đều. Số lần cho ăn trong ngày 2 lần/ngày. – Cho cá ăn theo nguyên tắc “4 xem”, “4 định”. Tức là sau khi nắm vững lượng thức ăn cho cá ăn hàng ngày, còn cần phải xem chất nước, xem khí trời, xem mùa vụ và xem tình hình hoạt động và bắt mồi của cá, cần linh hoạt xác định lượng thức ăn thực tế. + Xem chất nước: Nếu màu nước ao bình thường, độ béo thích hợp có thể cho cá ăn lượng thức ăn bình thường. Nếu chất nước quá đậm, sinh vật phù du phát triển quá nhiều, có khả năng làm cá nổi đầu, thì ngưng cho ăn, cần phải thay nước rồi mới cho cá ăn. + Xem khí hậu: Là căn cứ vào tình hình khí hậu thời điểm đó mà cho ăn, nếu như trời u ám, nóng bức quá mức, có sấm chớp và mưa dầm liên tiếp, cho cá ăn ít hoặc ngừng cho ăn. + Xem thời tiết: Là tùy theo thời tiết để điều chỉnh lượng thức ăn cho cá ăn, vào tháng 7 – 9 nhiệt độ nước cao nhất, cá ăn nhiều lớn nhanh, thời tiết này cá ăn nhiều nhất; tháng 5 – 6 nhiệt độ cũng lên cao, nhưng cá vẫn còn chưa lớn, do đó lượng thức ăn ít hơn; tháng 10 – 11 tuy nhiệt độ đã giảm, nhưng cần nuôi thúc cho cá béo, nên vẫn cho ăn lượng thức ăn thích hợp. + Xem tình trạng hoạt động bắt mồi của cá: Căn cứ vào lượng thức ăn cho ăn hằng ngày. Trong sản xuất nói chung, yêu cầu cá nuôi trong ao khoảng thời gian ≥ 1 giờ về cơ bản ăn hết lượng thức ăn, nếu không thì phải tăng giảm lượng thức ăn. – Phải thực hiện “4 định” chính là định thời giờ, địa điểm, định giờ, định chất, định lượng. + Định giờ cho ăn: Tốt nhất mỗi ngày cho ăn 2 lần, do cá nheo có dạ dày phình to, 1 lần ăn no sau đó có thể duy trì cung cấp dinh dưỡng trong thời gian tương đối dài. + Định điểm cho ăn: Có thể làm cho cá nheo bắt mồi ở vị trí nhất định, cần đặt thức ăn trong sàng ăn, sàng ăn thường dùng lưới cước cỡ 25 – 40. Trong ao thường đặt 1 – 2 sàng thức ăn, ao có diện tích 1.000 – 2.000 m2 đặt 6 – 10 sàng ăn, lúc cho ăn nên gõ vào thùng thức ăn, tạo phản xạ có điều kiện cho cá đến ăn. Không nên chuyển chỗ ăn đi nơi khác, hoặc nay để chỗ này, mai để chỗ khác. Nếu không thì thức ăn thừa, phân cá tích lũy lại làm ảnh hưởng đến việc cá bắt mồi. Nơi đặt sàng ăn, thường xuyên dùng vôi sống để khử trùng. + Định chất: Cần đảm bảo chất lượng thức ăn, không dùng nguyên liệu biến chất và phải phối chế thức ăn theo yêu cầu dinh dưỡng của cá. Ngoài ra, thức ăn cần phải chế biến tỉ mỉ, cỡ viên vừa miệng, nâng cao tỷ lệ tiêu hóa thức ăn của cá. + Định lượng: Yêu cầu cơ bản là nắm vững lượng thức ăn cung cấp cho cá, không để cho cá đói, cũng không để cho cá ăn quá no. Cá nheo miệng rộng trong trạng thái đói và nửa đói sẽ ăn thịt lẫn nhau. Lượng thức ăn của cá nheo có quan hệ với kích thước cá, nhiệt độ nước, lượng oxy, chất lượng thức ăn… lúc chất nước tốt, khí hậu đẹp, cá ăn mạnh có thể cho cá ăn nhiều; nếu khí trời không bình thường thì giảm bớt thức ăn, thậm chí không cho ăn; mùa hè nhiệt độ cao, ban ngày cho ăn ít, buổi chiều tối cho cá ăn nhiều. 4. Chăm sóc và quản lý ao nuôi – Công việc quản lý hàng ngày của ao nuôi cá thương phẩm, có thể khái quát thành 3 siêng và 4 kịp thời: + “3 siêng”: Tức là siêng kiểm tra ao, siêng làm vệ sinh ao, siêng ghi chép. Mỗi ngày cần tuần tra ao 3 lần: Vào buổi sáng sớm chủ yếu quan sát cá nổi đầu không và mức độ nặng nhẹ của nổi đầu, đồng thời dùng biện pháp tương ứng để xử lý; buổi trưa kiểm tra ao, kết hợp cọ rửa sàng ăn, kiểm tra hoạt động bắt mồi của cá; lúc chập tối chú ý đến sự biến hóa của chất nước, mực nước, trạng thái ao nghèo oxy, hoặc cá sinh bệnh tật. + “3 kịp thời”: Kịp thời dự báo tình trạng ao nghèo oxy, ao cá nổi đầu, kịp thời thêm và thay nước mới hoặc các biện pháp điều chỉnh chất nước; kịp thời phòng trị bệnh. Do cá Nheo chỉ cần nổi đầu 1 lần thì trong mấy ngày sau giảm bắt mồi, không lớn. Vì vậy, trong sản xuất cần tránh hiện tượng này không xảy ra. Thông thường cứ 10 ngày cho thay nước 1 lần, mỗi lần nâng mức nước lên 10cm. Lúc nhiệt độ cao cần tăng cường thay nước cũ, bổ sung nước mới. – Khi thời tiết thay đổi cần tăng thêm số lần kiểm tra vào ban đêm, dùng các biện pháp an toàn, bảo đảm cho ao cá không xảy ra sự cố. – Luôn luôn chú ý diệt trừ cá tạp xung quanh ao, xử lý tốt tạp chất, trong ao và màng nổi sinh vật trên mặt nước, thức ăn thừa và cá bệnh; định kỳ bón vôi sống để cải thiện chất nước. – Cần ghi chép các tình hình về: Khí hậu, nhiệt độ nước, độ trong nước, lượng cho ăn, bệnh tật, thay đổi nước và sự sinh trưởng, nổi đầu 5. Thu hoạch Sau 6 – 8 tháng nuôi cá đạt kích cỡ thương phẩm tiến hành thu hoạch, khi cá Nheo đạt kích cỡ thương phẩm 1,5 – 1,8 kg/con thì thu hoạch toàn bộ, kích cỡ thu hoạch tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
Cập nhật thông tin chi tiết về Kỹ Thuật Nuôi Cá Nheo Thương Phẩm trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!