Bạn đang xem bài viết Kỹ Thuật Nuôi Cá Dĩa Thương Phẩm, Sinh Sản được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
KHPTO – Theo các chuyên gia, cá dĩa là loại cá cảnh khó nuôi nhất trong các loại cá cảnh nhiệt đới bởi các đặc điểm khác biệt về nhu cầu sinh thái, đặc điểm sinh học so với họ hàng cá rô phi của chúng nói riêng và các loài cá cảnh nước ngọt nói chung. Do đó, để nuôi cá dĩa đạt hiệu quả cao, cần đặc biệt chú ý đáp ứng đầy đủ điều kiện sống và cách chăm sóc, đảm bảo lựa chọn giống đủ tiêu chuẩn.
Với những đặc điểm sinh học khác biệt của cá dĩa, đòi hỏi người nuôi cần nắm chắc. Khi nuôi trong bể kiếng, cá tăng trưởng chậm, sau từ 6 – 8 tháng nuôi có thể đạt từ 6 – 10 cm (kích cỡ thương phẩm). Đối với cá trưởng thành, sinh sản sau 10 – 20 tháng tuổi, cá đẻ trứng dính bám vào giá thể, khoảng 50 – 60 giờ (tùy nhiệt độ) trứng sẽ nở.
Về công tác chuẩn bị nuôi, có thể theo các hình thức nuôi trong bể kiếng hoặc bể xi măng. Vị trí nuôi phải đáp ứng đủ các điều kiện không gian yên tĩnh, ánh sáng vừa, tránh gió lùa và có nhiệt độ thích hợp. Đối với nguồn nước nuôi, nếu là nước máy cần sục khí nhẹ trên 2 ngày để loại bỏ clor trong nước và tăng cường
hòa tan oxy, kết hợp xử lý ozon, kiểm tra độ pH. Còn đối với nguồn nước giếng, cần kiểm tra chất lượng nước để có giải pháp xử lý cụ thể, nước đạt tiêu chuẩn sử dụng cho sinh hoạt phải tiếp tục xử lý cho qua bồn lọc cơ học, sục khí tăng cường và kiểm tra độ pH đạt 6,5 – 6,8.
Cá dĩa là một trong những loài cá rất nhạy cảm với tác động của môi trường xung quanh, do đó đòi hỏi rất cao về nhiệt độ và môi trường nước. Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cá, làm thay đổi trực tiếp nhiệt độ cơ thể cá. Đồng thời, nhiệt độ nước cũng tác động đến quá trình sinh hóa trong cơ thể cá. Sự thay đổi nhiệt độ quá lớn và đột ngột sẽ làm rối loạn quá trình sinh hóa trong cơ thể và ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường. Nhiệt độ thích hợp của cá dĩa trưởng thành là 26 – 28 độ C, cá con mới nở 5 – 6 cm là 28 – 30 độ C. Để đảm bảo nhiệt độ thích hợp nên đặt bể nuôi trong phòng có nhiệt độ ổn định, dùng sưởi để kiểm soát nhiệt độ trong bể.
Khâu thả giống cũng đóng vai trò quan trọng quyết định trực tiếp đến mô hình nuôi có hiệu quả hay không. Khi mua cá bố mẹ cần chú ý chọn cá có thân hình tròn, đầy đặn, khỏe mạnh, kỳ vây nguyên vẹn, phản xạ nhanh nhẹn, mua từ những nghệ nhân nuôi thành công. Nếu mua cá con cần biết rõ nguồn gốc, chú ý các biểu hiện như đàn cá khỏe mạnh, đồng đều, phân tán đều trong bể, không tụm lại góc bể, phản xạ nhanh nhẹn, thường tập trung lại máng ăn.
Về quá trình chăm sóc, cần lưu ý đến các loại thức ăn cho cá dĩa bao gồm trùn chỉ, cá lóc nhuyễn, trùng huyết, bo bo đông lạnh hoặc thức ăn tự chế biến. Đối với trùn chỉ và cá lóc nhuyễn, chú ý mua về để vài giờ nhằm loại bỏ hết chất thải trong ruột của chúng, rửa qua nước sạch vài lần, vớt những con sống cho cá ăn, sau đó sục khí tiếp để lại cho lần ăn sau. Đối với trùng huyết và bo bo đông lạnh, cần mua tại những cơ sở uy tín, phải còn tươi thả trực tiếp vào bể lượng vừa đủ. Loại thức ăn tự chế biến, tất cả phải được xay nhuyễn, bỏ vào túi nylon, cán dẹp, để ngăn đá tủ lạnh và cho ăn dần. Cá dĩa ăn rất ít, bởi vậy cần cung cấp lượng thức ăn vừa đủ hoặc hơi thiếu, dựa vào việc theo dõi sức ăn hàng ngày để điều chỉnh cho phù hợp nhất.
Kỹ Thuật Nuôi Cá Mú Thương Phẩm
Nhìn chung, tuổi thành thục lần đầu của cá mú vào khoảng 3 -4 tuổi . Tùy theo kích cỡ của từng loài, đến giai đoạn thành thục, chúng sẽ có trọng lượng khác nhau. Trong giống Epinephelus, loài cá mú lớn nhất là loài Epinephelus lanceolatus (cân nặng tối đa 400kg), còn thông thường thì một số loài chỉ có trọng lượng khoảng 2-3 kg
Trong tự nhiên, vào mùa hè, có mú thường sống ven biển, còn mùa đông thì di cư ra ngoài khơi. Chúng thường sống trong dải đá ngầm, san hô, nơi đầy cát, sỏi hoặc bùn…
Thức ăn của cá mú khá đa dạng, từ cá nhỏ cho tới loài giáp xác, động vật chân đầu, động vật thân mềm…; ở giai cá con chúng thường ăn thịt lẫn nhau.
Mùa sinh sản cá mú thây đổi theo từng loài và vùng địa lý, khí hậu. Ở Đài Loan, mùa sinh sản của cá mú từng từ tháng 3 đến tháng 10, ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 10, còn ở miền Bắc Việt Nam từ tháng 4 đến tháng 7, ở miền Trung khoảng tháng 12 đến tháng 3 năm sau, riêng Nam bộ thì cá có thể đẻ quanh năm.
Mỗi loài cá mú sản xuất số lượng trứng khác nhau trong một lứa đẻ. Loài E. akara: 150.000-500.000 trứng, loài Epinephelus malabaricus 600.000-1.900.000 trứng/ kg.
Tốc độ tăng trưởng của cá mú cũng thây đổi theo từng loài. Ở nước ta, sau khi nuôi 1năm, loài Epinephelus malabaricus có trọng lượng 0.8kg, loài E. lancelatus nặng 3-4kg.
I. Nuôi vỗ cá cha mẹ
Bạn có thể sử dụng nguồn cá cha mẹ đánh bắt trong tự nhiên hay nguồn nuôi từ ao, đĩa, lồng đều được. Dĩ nhiên khi chọn nguồn cá người ta đã bắt đầu nuôi từ trước thì bạn dễ nuôi hơn, vì chúng đã thích hợp với đều kiện nuôi nhốt.
Nếu đánh bắt cá trong tự nhiên, bạn nên dùng lưới không nên dùng bẫy tre hoặc dùng chất cyanide để bắt. Sau khi bắt xong bạn vận chuyển ngay về trang trại của bạn. Trong quá trình vận chuyển, nếu sử dụng bồn chứa hoặc chứa có máy sục khí của bạn không cần gây mê cá.
Khi đưa cá về trại, bạn tắm cá 24 giờ trong dung dịch formol 25 ppm pha trộn kháng sinh Oxytetracyline với nồng độ 2mg/l hoặc tiêm 20mg/kg cá để phòng chống nhiễm khuẩn cho cá.
Bạn thả cá vào bể nuôi vỗ có thể tích 150 – 300 m2 , chứa nước biển sạch có độ mặn 29-33%0 và nhiệt độ nước duy trì thường xuyên ơ mức 28-30o C. Chú ý, nước trong bể phải được lọc qua cát trước khi bơm vào bể nuôi.
Mật độ thả nuôi khoảng 1 kg cá/m3. Tỷ lệ đực và cái 1-1 đến 1-2. Mỗi ngày bạn thay nước bể từ 50 đến 100%.
Thức ăn nuôi vỗ cha mẹ là cá thu, cá nục, cá bạc má …những loài cá rẻ tiền khác. Mỗi ngày, bạn cho cá ăn 2 lần với khối lượng thức ăn khoảng 1-2 % tổng trọng lượng cá.
Trong quá trình nuôi, bạn cần đều chỉnh lượng thức ăn hằng ngày để tránh tình trạng thiếu thức ăn hoặc dư thừa quá nhiều ảnh hưởng xấu đến môi trường trong nước
Nhìn chung, bạn cần cân đối các thành phần dinh dưỡng trong thức ăn cho cá mú. Thức ăn cần có hàm lượng trên 40% đạm (protein), 6-8% chất béo (lipid), ngoài ra còn bổ sung dầu cá vitamin E, C vào thức ăn.
Kỹ thuật nuôi đúng chuẩn, thức ăn đủ khối lượng và chất lượng sẽ có tác động lớn đến sự sinh trưởng, khả năng thành thục, tỷ lệ sinh sản, tỷ lệ trứng nở của cá mú. Việc bổ sung các nguồn chất béo giàu acid béo không no (Huga) sẽ có tác động trực tiếp đến sự thành thục của cá mẹ.
1. Kích thích cá thành thục
Trong đều kiện nuôi nhốt, cá mú rất dễ thành thục. Thường khi con nhỏ chúng là con cái, đến lúc thành thục chúng chuyển thành cá đực.
Để giúp cá thành thục sớm, bạn có thể áp dụng kỹ thuật cấy hỗn hợp Cholestrerol, LHRH và 17 – a Methyltestosterone. Biện pháp này giúp cá thành thục đồng loạt.
Nếu nhận thấy số lượng ca đực quá ít, bạn có thể tiêm hoặc cấy 17 – a Methyltestosterone để tăng số lượng cá đực.
2. Chọn cá đẻ
Để nhận biết cá đực và cái thành thục, bạn căn cứ vào những yếu tố sau: đối với cá đực khi vuốt nhẹ vùng gần lỗ sinh dục xuất hiện sẹ (tinh dịch) màu trắng đục chảy ra, còn đối với cái, bạn quan sát đường kính trứng, nếu trứng có đường kính khoảng 0,4-0,5mm là đạt yêu cầu sinh sản.
3. Sinh sản
Việc cá mú đẻ trứng có sự tác động của chu kỳ trăng. Chúng thường đẻ trước hoặc sau vài ngày kỳ trăng non hoặc trăng tròn. Vài ngày trước trăng non hoặc trăng tròn, bạn cần thây đổi bể nước, tạo dòng chảy liên tục, để kích thích cá phóng tinh và đẻ trứng. Cứ để cá đẻ tự nhiên, bạn không cần phải tiêm thuốc kích thích như đối với một số loài cá khác. Thời điểm cá đẻ trứng thường vào ban đêm
4. Ấp trứng
Sau khi cá đẻ, trứng thụ tinh sẽ nổi lơ lửng gần mặt nước (đường kính 0,8-0,9mm). Bạn vẫn tiếp tục bơm nước liên tục vào bể để tạo thành dòng chảy. Bên trong bể, bạn đặt một giai thu trứng mắt lưới 0,2-0,3mm.
Sau khi cá đẻ trứng vào hôm trước, sáng hôm sau bạn cần thu gom trứng ngay. Trứng thu từ bể đẻ thường dính tảo và những chất bẩn khác, do đó bạn cần lọc trứng qua lưới có đường kính mắt lướt 1mm.
Xong công đoạn này, bạn cho trứng vào ngay bể ấp (đặt trong bể ương). Mật độ ấp khoảng 4000 – 5000 trứng/ m3. Suốt quá trình ấp, bạn sục khí vừa đủ tạo sự lưu thông nước trong bể ấp.
Sau 16-18 giờ, trứng sẽ nở trong môi trường nước có độ mặn 30-33‰, nhiệt độ 28 – 300C.
II. Ương cá bột thành cá giống 1. Ao ương
Bạn có thể ương cá bột trong bể ximăng, bể composit, giai đặt trong bè hay ao đất. Hiện nay bể ương phổ biến nhất là hình chữ nhật hoặc tròn (tùy bạn chọn). Bể cần có thể tích từ 5 đến 12 m3, sâu 1-1,6 m. Sau khi chuẩn bị bể xong bạn bơm nước vào (nước đã lọc sạch xử lý Chlorin 30ppm). Nước có độ mặn 30-34‰ , duy trì thường xuyên nhiệt độ 28-30 độ C.
2. Ương cá bột
Bạn có thể thực hiện việc ấp trứng trong bể ương hoặc ấp trứng trong bể khác sau khi nở, bạn đưa cá bột vào bể ương. Tùy hệ thống ương bạn sử dụng cách ương với mật độ thưa từ 4-5con/L đến mật độ dày 20-30con/L.
Sau khi nở 60 giở, cá bột sẽ tìm nguồn thức ăn ngoài. Lúc này, bạn cần cho cá ăn luân trùng SS(đã được làm giàu bằng acid béo không no (Hufa)), mật độ 6-10 cá thể/ml. Để duy trì chất lượng nước tốt đồng thời làm thức ăn cho cá, bạn bỏ tảo Chlorella vào bể ương duy trì ở mật độ 3×105/ml.
Từ lúc cá bột được 6 ngày tuổi, bạn cho luân trùng L vào bể ương thay thế cho luân trùng SS. Đến khi cá được 15-20 ngày tuổi, bạn cho ăn thêm ấu trùng Artemia 1-3 cá thể/ml. Từ ngày tuổi 30-35, cá bột có thể ăn được Moina, Artemia trưởng thành và các sinh vật phù du lớn hơn.
Cách thay nước
Trong giai đoạn cá bột mới nở đến 10 ngày tuổi thứ 10, bạn chỉ bổ sung nước mới vào bể ương, không thay nước. Đến khi cá được 10-20 ngày tuổi, bạn thay nước 10-20% ngày rồi tăng lên 30%/ngày. Lúc cá được 30-40 ngày tuổi, thay nước 40%/ngày và tăng dần lên 50%/ngày cho đến khi cá bột chuyển thành cá giống.
II. Nuôi trong lồng tre
Trước hết bạn phải chọn vị trí đặt lòng nuôi: eo biển, vịnh, đám, phá, – những nơi ít gió bão, sóng nhẹ, nhiệt độ khoảng 200C trở lên và độ mặn trongphạm vi 10-33‰
Nơi nuôi cá phải có nguồn nước sạch, không bị ảnh hưởng bởi nước thả công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Mực nước phải thường xuyên đạt ở 1-2 m, khi thủy triều xuống, độ sâu tối đa từ 2,5 -3 m, lưu tốc khoảng 0,2-0,4 m/giây. Nơi nuôi cá phải thuận tiện với giao thông đường bộ và dường thủy, gần nơi cung cấp nguồn thức ăn cho cá, dễ chăm sóc và bảo vệ cá
3. Thiết kế lồng
Bạn sử dụng lồng dưới hoặc tre đều được. Song để tiết kiệm chi phí bạn có thể sử dụng lồng tre. Dĩ nhiên không bền của lồng có giới hạn.
Bạn chọn tre dày 1-1,5 m, rộng 3-4 cm, dài 1,2-2 m. Đây chỉ là tiêu chuẩn thiết kế lồng tượng trưng, còn tùy ý không gian và độ sâu của nơi đặt lồng mà bạn xây phù hợp
Lồng nuôi cần có hình tròn, đường kính từ 2,5-3 m, cao 1,5-2 m. Lồng cần có tay cầm để tiện di chuyển. Bạn bện chung quanh lồng khoảng 2-4 hàng cước (đường kính 0,18-0,2cm) còn đường ở giữa dùng tre tốt uốn dẽo để ràng quanh.
Riêng về nắp lồng, bạn sử dụng tre hoặc lưới cước đều được, song cần có một cửa vuông để bạn ra vào, kiểm tra lồng. Kích cỡ khoảng 70×70 cm hoặc 80×80 cm. Đáy lồng làm bằng sạp tre đan khít để cá không lọt ra ngoài.
Bạn đóng 4 cột xuống nền đáy để treo lồng vào đó, lồng cách đáy khoảng 0,5 cm cao hơn mặt nước 0,4 – 0,5 m.
4. Chọn cá giống
Bạn chọn con kích cỡ 9-12 cm, không bị trầy sước, bệnh tật hay mang mầm bệnh từ trước. Nhìn chung, cá phải mạnh khỏe, bơi lội nhanh nhẹn, có màu sắc chuẩn của loài cá mà bạn muốn nuôi. Nuối thả cá nuôi là loại cá sinh sản nhân tạo hay từ cá cha mẹ do con người nuôi thì chúng cần có tiểu sử rõ ràng, tức có lý lịch cá cha mẹ thuộc loài nào ngày sinh trọng lượng v.v
Về mật độ thả nuôi thì tùy theo địa phương, nguồn nước, nhiệt độ, có nuôi ghép với những loài khác hay không để bạn tính cần thả bao nhiêu con là vừa.
Ở nơi có nguồn nước sạch, dòng chảy liên tục, thức ăn đầy đủ, bạn thả với mật độ dày (khoảng 40-50 con/m3), còn những nơi khác thì nên thả mật độ trung bình là 10-35 con/m3.
Nếu nuôi ghép bạn có thể chọn cá hồng, cá dìa.. nuôi chung với cá mú.
Thời điểm thả giống thích hợp nhất là lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Trước khi thả, bạn tiêu độc cho cá bằng dung dịch thuốc xanh Malachine (liều lượng 5-10 g/m3), tắm cá trong dung dịch khoảng 20-25 phút rồi thả chúng từ từ vào lồng. Cẩn thận hơn bạn có thể cho từng nhúm cá giống vào trong bao nilon chứa nước của môi trường nuôi rồi đặt bao vào lồng khoảng 15 phút để cá quen dần với nước và nhiệt độ. Sau đó, mở miệng bao thả từng con ra ngoài.
5. Cách cho ăn
Bạn cho cá mú ăn những loài cá tạp nhỏ, hải sản sống, rẻ tiền. Thí dụ như các vụn các loại (kể cả cá biển), cua, ghẹ, các loài nhuyễn thể tươi, thịt tươi các loại. Bạn băm nhỏ những loại thức ăn này để cá mú dễ ăn.
Sau khi thả cá giống vào lồng, khoảng hai ngày sau, bạn hãy cho cá ăn. Dù sử dụng thức ăn băm nhỏ hay sinh vật sống với miệng cá bạn cũng không nên đổ hàng loạt thức ăn vào lồng.
Mỗi ngày bạn cho cá ăn hai lần (sáng sớmvà chiều tối). Hãy rải đều thức ăn vào khắp lồng, không tập trung thức ăn vào một chỗ. Bạn cho cá ăn từ từ, tập cho cá quen dần với thức ăn mới. Bao giờ nhận thấy cá táp mồi nhanh, bạn mới tăng dần tốc độ cho ăn lên. Song, xin lưu ý, cá mú không thích những thức ăn rơi nằm trên đáy lồng, do đó bạn cần điều chỉnh làm sao để thức ăn rơi xuống nước thì cá ăn ngay, như vậy mới không phí thức ăn.
Bạn cho cá ăn theo tỷ lệ 5-10% thức ăn/tổng trọng lượng ca/ ngày.
Thông thường, nếu thời tiết thay đổi ngột (nóng quá hay lạnh quá), nhiệt độ nước tăng giảm bất thường, dòng chảy biến động nhiều thì cá sẽ bị tress, giảm ăn. Do đó, trong ngày mưa bảo, bạn chỉ cần cho cá ăn một lần giảm thức ăn xuống còn ½-1/4 lượng thức ăn hàng ngày.
Bạn cần theo dõi lượng thức ăn thường xuyên, chỉ cho cá ăn vừa đủ theo nhu cầu tăng trưởng của chúng, không cho ăn quá nhiều hoặc quá thiếu. Nếu cung cấp nhiều thức ăn đến mức dư thừa thì phải tăng thêm chi phí, còn thiếu cá chậm tăng trưởng, giảm trọng lượng, có thể dẫn đến sức đề kháng bệnh kém.
6. Chăm sóc quản lý
Bạn cần kiểmt tra thường xuyên lồng nuôi. Khoảng 4-5 ngày bạn vệ sinh lồng một lần, cọ rửa các nan tre và lưới, tháo bỏ rác rưởi bám chung quanh lồng, dọn sạch thức ăn thừa, trên đáy lồng. Làm sao để lồng thông thoáng lưu thông dễ dàng, giúp hạn chế bệnh cho cá (mặc dù loại cá này hiếm khi bị bệnh).
Hàng tháng kiểm tra cá một lần, tách những con lớn nuôi riêng để tránh tình trạng cá lớn ăn thịt cá nhỏ hoặc cắn xé khiến cá nhỏ trầy sước và có thể chết. Nói cách khác, nuôi từng đàn có kích cỡ đều là tốt nhất.
Trong những ngày khí áp thấp, bạn cần lấy mái chèo khấy nước trong lồng để cá đủ không khí, không bị ngột dẫn đến tình trạng giảm ăn hoặc chết.
7. Thu hoạch
Thả nuôi 6-8 tháng, cá sẽ đạt trọng lượng trung bình khoảng 0,5-0,8 kg/con. Lúc này, bạn thu hoạch được rồi. Tùy theo loài cá sẽ có trọng lượng khác nhau. Do đó, bạn cần căn cứ vào nhu cầu thị trường trong nước hoặc nước ngoài để nên biết thu hoạch cá có trọng lượng ra sao.
Thời điểm thu hoạch tốt nhất trước mùa lạnh, vì nhiệt độ xuống con 180C, cá sẽ ngưng ăn không tăng trọng. Nếu nuôi ở vùng không có sự biến động nhiệt độ nhiều thì không sao. Ví dụ như ở miền Nam Việt Nam, còn ở miềnTrung và miền Bắc cần chú ý đến chi tiết này.
IV. Nuôi trong ao nước lợ
Hiện nay, người ta nuôi khá nhiều loài cá mú Epinephelus merra ở những tỉnh ven biển của Việt Nam. Việc nuôi cá mú Epinephelus merra tỏ ra đơn giản hơn việc nuôi tôm, cua và động vật thân mềm khá nhiều.
Nếu nuôi loài cá mú trên (hoặc loài khác), bạn xây dụng ao theo tiêu chuẩn kỹ thật có hệ thống cấpvà thoát nước tốt. Bạn chọn con giống có trọng lương 20-30 g/con có nguồn tự nhiên, thả vào ao nuôi từ tháng hai đến tháng ba với mật độ 1-2 con/2m2.
Ca mú Epinephelus merra loài ăn tạp. Thức ăn chủ yểu của chúng là cá chải có kích thước nhỏ và cá biển rẻ tiền. Bạn hãy băm nhỏ cá rồi cho cá mú ăn. Trong 3 tháng đầu thả nuôi bạn cho ăn khoảng 30-40% thức ăn/ tổng trọng lượng cá (mỗi con dài từ 1-3 cm). Đến tháng tư lượng thức ăn giảm xuống còn 15-20%/tổng trọng lượng cá (lúc này mỗi con dài 3-4 cm).
Mỗi ngày bạn cho cá mú ăn hai lần, thức ăn được rải đều khắp ao. Hằng ngày, trong quá trình cho ăn, bạn đều chỉnh lại lượng thức ăn để tránh tình trạng dư thừa hoặc thiếu thức ăn cho cá.
Sau 7 tháng nuôi, cá mú đạt trọng lượng trung bình 0,5 kg/con. khả năng kháng bệnh của loài cá này mức tương đối, do tỷ lệ sống của chúng vàokhoảng 80-85%/ bầy cá.
Kỹ Thuật Nuôi Cá Kèo Thương Phẩm
Ao nuôi cá kèo cũng giống như ao nuôi các loài cá khác, là những ao đất thông thường. Ở vùng ven biển có thể sử dụng ao nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh hoặc ao nuôi quảng canh để nuôi luân canh cá kèo. Vùng làm muối có thể luân canh nuôi cá kèo trong ruộng muối vào mùa mưa khi nước bị giảm độ mặn không sản xuất được muốỉ.
Cần lựa chọn ao có diện tích hợp lý để nuôi cá kèo. Ao có diện tích quá nhỏ thì việc đầu tư không lớn nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Nếu ao quá lớn sẽ phải đầu tư lớn và cũng khó khăn trong công tác quản lý môi trường ao nuôi, chăm sóc cá nuôi và nhất là khó khăn khi thu hoạch. Từ những kinh nghiệm thực tế nuôi cá kèo ở các địa phương cho thấy, ao nuôi có diện tích từ 1.000 – 2.000 m2 là thích hợp nhất.
Trước khi tiến hành thả cá giống nuôi, phải chuẩn bị và cải tạo lại ao thật kỹ, bao gồm các khâu sau đây:
– Tát cạn ao, diệt hết cá tạp, cá dữ như cá chẽm, cá nâu, cá rô phi và tất cả các loài cá và địch hại khác. Nên dùng rễ cây thuốc cá ( Derris elliptica Benth) để diệt tạp, với liều lượng 1 kg rễ tươi cho 100 m3 nước ao. Theo Bùi Quang Tề, dây thuốc cá có hoạt chất chính là Rotenon (hay Tubotoxin; Derris), chất này có tác dụng độc đối với động vật máu lạnh, rất độc với cá nhưng không độc với người và các loài giáp xác (như tôm, cua) Để nước trong ao còn độ sâu 8-10 cm và tính toán thể tích nước có trong ao, rễ cây thuốc cá đập dập, ngâm trong nước từ 5-6 giờ rồi vắt lấy nước, hòa loãng, sau đó té đều khắp mặt ao. Tất cả cá sẽ chết hết và vớt đi rồi tháo hết nước hoặc bơm cạn ao để phơi đáy.
– Cày hoặc xới đáy ao một lớp đất mỏng (5-7 cm) để đáy ao thoáng khí, tạo điều kiện cho sinh vật trong đáy ao phát triển để có nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.
– Bón lót cho ao bằng phân hữu cơ (ủ mục, hoai) liều lượng 20 – 30 kg/100 m2 ao.
– Rải vôi bột xuống đáy ao để hạ phèn, diệt tạp, diệt các mầm bệnh, lượng dùng 8-12 kg/100 m2, sau đó có thể xới đảo bùn đáy để hòa trộn vôi và phân hữu cơ.
– Phơi đáy từ 2 – 3 ngày. Những ao ở vùng bị nhiễm phèn thì không nên phơi đáy ao.
Những ao đã nuôi tôm sú trước đó thì không cần bón lót phân hữu cơ, chỉ nên diệt tạp và cá dữ bằng rễ cây thuốc cá, rải vôi để diệt tạp, hạ phèn và diệt mầm bệnh trong đáy ao.
– Lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc để tránh địch hại và cá dữ, cá tạp lọt vào ao ăn hại cá và tranh giành thức ăn với cá nuôi. Khi mức nước đạt khoảng 0,3 – 0,4 m thì có thể thả cá giông. Những ngày sau đó tăng dần mức nưóc ao cho đến khi đạt theo yêu cầu
Mùa vụ nuôi
Hiện nay các địa phương đang nuôi cá kèo thường dựa vào điều kiện ao và mùa vụ xuất hiện giống tự nhiên để tiến hành vụ nuôi. Giống tự nhiên thường bắt đầu có từ tháng 4 – 5 kéo dài đến tháng 8 – 9. Tuy vậy ngư dân vẫn khai thác cá giống tự nhiên gần như quanh năm và kích cỡ cá giống cũng lớn nhỏ không đều ở các tháng ngoài vụ giống chính. Mùa vụ nuôi cá kèo từ tháng 4-5 khi bắt đầu có con giống tự nhiên. Ngoài ra người nuôi còn sử dụng ao nuôi tôm để nuôi cá kèo sau khi nuôi tôm vụ 1 (vào tháng 7-8).
Kinh nghiệm ở một số địa phương cho thấy nếu nuôi sớm vào tháng 4-5 thì cá phát triển tốt, nhất là các tháng đầu tiên điều kiện môi trường thuận lợi cho cá do nhiệt độ cao nhưng không biến động nhiều, chưa có mưa nhiều nên độ mặn và các yếu tố của nước ít biến động. Nếu nuôi vào các tháng 7-8, thời tiết và môi trường có nhiều biến động do mưa lớn, độ mặn giảm, nhiệt độ thường thay đổi và chênh lệch lớn và nhất là vào các tháng cuối năm nhiệt độ hạ thấp nên ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cá. Ớ một số vùng ven biển Đồng bằng Sông Cửu Long vào cuối mùa mưa, độ mặn ỏ các ao nuôi có khi xuống rất thấp, thậm chí gần như nước ngọt hoàn toàn. Vào những thời điểm này cá rất dễ bị nhiễm bệnh và chết, dẫn đến tình trạng hao hụt số lượng cá và tỷ lệ sống thấp khi thu hoạch.
Kích cỡ và mật độ thả giống nuôi Kích cỡ cá giống
Nên chọn cá giống cỡ 3 – 5 cm hoặc 4 – 6 cm, cá giống ương nuôi trong ao là tốt nhất vì sẽ có kích cỡ đồng đều hơn, khỏe hơn vì đã thích nghi với điều kiện trong ao. Chọn cá khỏe mạnh, hoạt động nhanh nhẹn, không bị nhiễm bệnh, màu sắc tươi sáng, có nhiều nhớt.
Kinh nghiệm ở nhiều người nuôi nếu thả con giống còn quá nhỏ không qua ương nuôi thì tỷ lệ hao hụt rất lớn, có khi tới 60 – 70%, do cá yếu và chưa thích nghi với điều kiện môi trường mới trong ao nuôi. Ngoài ra tỷ lệ lẫn giống tạp khác còn cao do quá trình ép lọc vẫn chưa loại bỏ hết, nên có tình trạng cá tạp tranh dành thức ăn của cá nuôi, làm giảm hiệu quả nuôi
Mật độ thả nuôi
Tùy theo điều kiện ao, khả năng quản lý chăm sóc và cỡ cá, có thể thả nuôi với mật độ 30 – 60 con/m2, trung bình 50 con/m2. Nếu cỡ cá nhỏ (3 cm) nên thả mật độ cao hơn so với cỡ cá lớn (5-6 cm) để trừ hao hụt trong khi nuôi. Nếu điều kiện quản lý và kiểm soát chất lượng nước chủ động, có thể tăng mật độ nuôi lên cao hơn 60 con/m2, Một số hộ nuôi bống kèo còn có kinh nghiệm thả với mật độ ban đầu rất cao (hơn 100 con/m2), sau hai tháng nuôi thì san thưa với mật độ 50 con/m2. Tuy nhiên biện pháp thả dày rồi san thưa chỉ nên áp dụng với những hộ có các ao nuôi gần nhau để chuyển cá nhanh chóng, tránh được hao hụt trong khi đánh bắt, vận chuyển và san thưa cá.
Chăm sóc và quản lý ao nuôi Thức ăn cho cá
Cá kèo có tính ăn tạp, ngoài thức ăn tự nhiên có trong ao như phù du động thực vật, sinh vật đáy, rong tảo sống bám, mùn bã hữu cơ… cá còn ăn được các thức ăn do con ngưòi cung cấp như thức ăn chế biến và thức ăn viên công nghiệp.
Để duy trì thức ăn tự nhiên, phải định kỳ bón thêm phân hữu cơ đã ủ hoai 10-15 kg/100m2/tuần hoặc 100 – 150 gam phân vô cơ (DAP, NPK)/tuần. Thức ăn chế biến gồm cám gạo (60 – 70%) và bột cá (30 – 40%) được trộn đều và nấu chín, trộn thêm premix khoáng và vitamin A,D,E,C (tổng cộng 0,2 – 0,3% tổng trọng lượng thức ăn). Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 25% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3, 4 và 18% cho hai tháng cuối. Khẩu phần ăn 4-6% trọng lượng thân/ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần, cho ăn vào buổi sáng và chiều lúc trời mát.
Cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp cần phải chọn loại kích cỡ thức ăn phù hợp với độ lớn và kích thước miệng để cá có khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả nhất. Hàm lượng đạm trong thức ăn cũng dao động từ 18 – 25%, giảm dần theo tháng tuổi của cá. Khẩu phần ăn thức ăn viên công nghiệp từ 1 – 1,5% trọng lượng thân/ngày và cho cá ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.
Ngoài ra trong thời gian nuôi, thức ăn nên có bổ sung thêm một số loại men tiêu hóa nhằm kích thích cho cá ăn ngon và tiêu hóa thức ăn tốt hơn, tránh được hiện tượng cá bị chướng bụng, đầy hơi.
Quản lý ao nuôi a- Quản lý chất lượng nước
Nước ao cần được chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi. Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá giống, mức nước ao cần đạt 0,4 – 0,5 m, sau đó tiếp tục dâng từ từ, mỗi tuần cao hơn 0,2 m cho đến khi mức nước đạt tối đa.
Theo dõi mực nước hàng ngày, kiểm tra các yếu tố hóa lý của nước ao như nhiệt độ nước, pH, độ trong, độ mặn. Kiểm tra bờ và cống ao đề phòng bờ bị lỗ rò rỉ do cua còng đào hang, lưới chắn bị thủng do bị mục hoặc cua còng kẹp làm rách lưới. Vào mùa mưa, độ mặn nguồn nước cấp và nước trong ao có xu hướng giảm dần, chú ý độ mặn của nước cấp cho ao phải tương đương hoặc không quá chênh lệch với độ mặn của nước trong ao để tránh cá bị sốc. Độ mặn của nước ao nuôi cá bống kèo, dù vào mùa mưa cũng không nên để quá thấp dưới 3%o. Định kỳ mỗi tuần thay nước 1 lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước ao. Nếu nước ao bị nhiễm bẩn, màu nước xanh quá đậm hoặc chuyển màu nâu, có mùi hôi thì cần phải thay ngay nước mái trong sạch.
Hình 7. Chài kiểm tra cá nuôi
b- Phòng trừ địch hại
Có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn hại cá bống kèo như chim cồng cộc, rắn nước biển (con đẻn), cá nâu, cá rô phi, cá bống mọi, bống cát… Chim cồng cộc và rắn đẻn có thể lặn trong ao săn cá và ăn hại cá đáng kể, cá nâu cũng bắt ăn thịt cá bống kèo; cá rô phi bắt ăn cá kèo nhỏ và dành thức ăn của cá nuôi; cá bống mọi, bống cát cũng dành thức ăn của cá bống kèo.
Để phòng trừ địch hại, khâu quan trọng khi cải tạo ao là phải tìm diệt hết mọi cá tạp cá dữ, khi lấy nước vào ao lúc cấp nước lần đầu hoặc các lần thay nước định kỳ, phải chắn lọc kỹ, không để cá nâu và rô phi, bống mọi, bống cát nhỏ lọt vào ao qua đường cấp nước. Đối với chim cồng cộc, nên đặt các bù nhìn trên bờ ao hoặc treo dây ngang dọc trên mặt ao có gắn các ống bơ (lon) sữa bò nhằm tạo ra tiếng kêu để xua đuổi chim. Có thể dùng ná (giàng thun) để bắn chim và đuổi chim cũng có hiệu quả.
Ngoài ra, để bắt các loài cá bống cát. bống mọi, có thể điều tiết mực nước trong ao (dâng cao sau đó hạ thấp 5-10 cm) khi đó các loại cá bống mọi, bống cát có thể nằm lại ở phần mái bờ khi nước đã rút và dùng vợt thu gom.
Kỹ Thuật Nuôi Cá Tra Thương Phẩm
Ao nuôi nên chọn những nơi gần sông rạch lớn để có nguồn nước sạch, tiết kiệm chi phí bơm nước, ít bị ảnh hưởng của lũ lụt, thuốc trừ sâu và ô nhiễm hữu cơ, hóa chất…
Diện tích ao từ 500 m2 trở lên, độ sâu trên 3m, ao có hình chữ nhật, hình vuông hoặc hình tròn. Tuy nhiên ao nuôi có hình chữ nhật là thích hợp cho việc chăm sóc và thu hoạch.
Ao nên có cống cấp và cống thoát riêng, đáy ao có lớp bùn dày không quá 20 cm và nghiêng về phía cống thoát.
Ao có kết cấu nền đất tốt, ít bị nhiễm phèn. Nên chọn nơi đất sét hoặc sét pha cát để làm ao nhằm tránh rò rỉ nước và cá phá bờ ra ngoài. Bờ ao phải được làm kiên cố để phòng tránh lũ lụt và mầm bệnh lây lan từ ao khác.
Ao nuôi nên gần nhà để dễ quản lý và chăm sóc.
Cải Tạo Ao NuôiCải tạo ao là bước đầu quan trọng nhất trong nuôi cá . Cải tạo kỹ sẽ giúp người nuôi nâng cao tỉ lệ sống và hạn chế được nhiều bệnh cho cá trong quá trình nuôi. Qui trình này được xem như là qui trình cải tạo ao chung, có thể được ứng dụng cho tất cả các loài cá khác.
Qui trình cải tạo ao nên được tiến hành theo các bước sau:
Tháo cạn nước ao sau khi thu hoạch cá.
Sên vét và hút sình đáy ao.
Phơi đáy ao 3 -5 ngày (ao không có phèn tiềm tàng).
Nếu ao nuôi có nhiều phèn tiềm tàng thì nên tháo nước còn 5 cm trên đáy ao rồi sau đó bón vôi.
Sử dụng vôi CaCO3 (đá vôi) hoặc Ca(OH)2 (vôi tôi), rải đều khắp đáy ao, những vũng nước và bờ ao.
Bảng 1: Lượng vôi bón theo độ pH của đất và nước
Sử dụng lưới nylon (lưới giai) cao khoảng 40 cm rào chắn quanh ao.
Lấy nước vào ao lúc thủy triều cao nhất, nước qua cống hoặc ống bọng phải được lọc kỹ bằng lưới.
Sát Trùng Nước Trước Khi Thả CáSau khi lấy nước vào ao được 2 ngày, tiến hành hòa hóa chất diệt khuẩn tạt xuống ao để diệt các loài vi rút, vi khuẩn và nấm có trong nguồn nước.
Chọn Con Giống:
Cá tra phân đàn rất lớn trong thời gian nuôi. Chính lý do trên, nên chọn đàn cá cùng ngày tuổi, cùng kích thước là điều hết sức quan trọng, vấn đề này sẽ quyết định năng suất nuôi sau này.
Nên chọn mua cá giống ở những nơi tin cậy; cá có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh, không dị hình,không bị trầy xướt, bơi lội nhanh nhẹn, không có triệu chứng bệnh. Con giống có chiều cao 2 phân trở lên là thích hợp cho thả nuôi thương phẩm. Cũng cần phải áp dụng kĩ thuật ương cá giống để chất lượng cá thương phẩm sau này đạt hiệu quả cao.
Mật độ cá thả nuôi tùy thuộc vào quan điểm của từng người, tuy nhiên mật độ khoảng 40 con / m2 là thích hợp. Khi thả nuôi với mật độ cao, điều cần lưu ý là hàm lượng oxy trong ao thấp, đặc biệt vào lúc sáng sớm. Bên cạnh đó, nguồn nước trong ao thường xuyên bị ô nhiễm nặng do sự tích tụ của phân cá và thức ăn dư thừa làm cá chậm lớn và dễ bị nhiễm bệnh.
Thức Ăn Và Quản Lý Thức Ăn
Có hai loại thức ăn đang được người nuôi sử dụng là thức ăn công nghiệp và thức ăn chế biến (người nuôi tự phối chế). Ưu điểm của loại thức ăn tự chế biến là giá thành rẻ do sử dụng các nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Thông thường thức ăn cho mô hình nuôi thâm canh có hàm lượng đạm dao động từ 20 – 30%. Lượng thức ăn cho cá tra dao động từ 3 – 15% / ngày / trọng lượng cá, phần trăm thức ăn tùy vào kích thước của cá. Lượng thức ăn còn được điều chỉnh dựa trên điều kiện thời tiết và tình trạng sức khỏe của đàn cá trong ao.
Số lần cho cá ăn sẽ tùy vào từng giai đoạn phát triển của cá nuôi, dao động từ 2 -34 lần / ngày
Chăm Sóc Và Quản Lý Ao Nuôi
Hàng ngày nên kiểm tra cống bọng, bờ bao quanh ao, phát hiện những nơi rò rỉ.
Chế độ thay nước là một trong những công việc hết sức quan trọng. Nên thay nước mỗi ngày khoảng 20 – 50 % lượng nước trong ao.
Sau khi ăn cá sẽ cần oxy nhiều hơn, vì vậy việc bơm nước mới vào ao khoảng 30 phút trong lúc này là cần thiết giúp cá hô hấp và tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
Trong mùa mưa lũ, nước nguồn đổ xuống rất đục (nước quay), mang theo nhiều mầm bệnh, thuốc trừ sâu và ô nhiễm hữu cơ dễ gây bệnh cho cá trong ao. Để phòng tránh, khuyến cáo nên thay nước có kiểm soát và phối hợp kiểm tra hàm lượng oxy mỗi ngày lúc 6 giờ sáng. Khi oxy thấp hơn 4 ppm (mg / L) cần bơm nước mới vào ao. Ngoài ra có thể thay nước lúc nước cường ( rằm và ba mươi), mỗi ngày thay 30- 40% lượng nước trong ao.
Một Số Lưu Ý Khi Nuôi Cá Tra Thương Phẩm Trong Ao ĐấtVấn đề thường gặp trong ao nuôi cá thương phẩm
Cập nhật thông tin chi tiết về Kỹ Thuật Nuôi Cá Dĩa Thương Phẩm, Sinh Sản trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!