Xu Hướng 10/2023 # Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Cát # Top 19 Xem Nhiều | Psc.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Cát # Top 19 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Cát được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1. Chuẩn bị ao nuôi – Ao nuôi cá bống cát là những ao đất thông thường. Ở vùng ven biển có thể sử dụng ao nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh hoặc ao nuôi quảng canh để nuôi luân canh cá bống cát. Vùng làm muối có thể luân canh nuôi cá bống kèo trong ruộng muối vào mùa mưa khi nước bị giảm độ mặn không sản xuất được muối. Từ những kinh nghiệm thực tế nuôi cá bống cát ở các địa phương cho thấy, ao nuôi có diện tích thích hợp nhất từ 1.000 – 2.000 m2.

– Tát cạn ao, diệt hết cá tạp, cá dữ như cá chẽm, cá nâu, cá rô phi và tất cả các loài cá, các loài địch hại khác. Nên dùng rễ dây thuốc cá (Derris elliptica Benth) để diệt tạp, với liều lượng 1kg rễ tươi cho 100m3 nước ao. Cách làm như sau: Để nước trong ao còn độ sâu 8 – 10cm và tính toán thể tích nước có trong ao, rễ dây thuốc cá đập dập, ngâm trong nước 5 – 6 giờ rồi vắt lấy nước, hòa loãng, sau đó té đều khắp mặt ao. Tất cả cá sẽ chết hết và vớt đi rồi tháo hết nước hoặc bơm cạn ao để phơi đáy.

– Cày hoặc xới đáy ao 1 lớp đất mỏng (5 – 7 cm) để đáy ao thoáng khí, tạo điều kiện cho sinh vật đáy phát triển làm nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.

– Bón lót cho ao bằng phân hữu cơ, liều lượng 20 – 30 kg/100m2 ao.

– Rải vôi bột xuống đáy ao để hạ phèn, diệt tạp, diệt các mầm bệnh, lượng dùng 8 – 12kg/100m2, sau đó có thể xới đảo bùn đáy để hoà trộn vôi và phân hữu cơ.

– Ao cần phơi đáy 2 – 3 ngày. Những ao ở vùng bị nhiễm phèn thì không phơi đáy Những ao đã nuôi tôm sú trước đó thì không cần bón lót phân hữu cơ, chỉ nên diệt tạp và cá dữ bằng rễ dây thuốc cá, rải vôi, hạ phèn và diệt mầm bệnh trong đáy ao.

– Lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc để tránh địch hại và cá dữ, cá tạp lọt vào ao ăn hại cá và tranh giành thức ăn với cá nuôi. Khi mức nước đạt 0,3 – 0,4m thì có thể thả cá giống. Những ngày sau đó tăng dần mức nước ao cho đến khi đạt theo yêu cầu (0,8 – 1m).

2. Mùa vụ nuôi Mùa vụ nuôi bống cát từ tháng 4 – 5 khi bắt đầu có con giống tự nhiên, ngoài ra người nuôi còn sử dụng ao nuôi tôm để nuôi bống cát sau khi nuôi tôm vụ 1 (vào tháng 7 – 8).

3. Kích cỡ và mật độ thả giống cá nuôi – Kích cỡ cá giống: Nên chọn cá giống khoảng 3 – 5cm hoặc 4 – 6cm, cá giống ương nuôi trong ao là tốt nhất vì sẽ có kích cỡ đồng đều hơn, khoẻ hơn vì đã thích nghi với điều kiện trong ao. Chọn cá khoẻ mạnh, hoạt động nhanh nhẹn, không bị nhiễm bệnh, màu sắc tươi sáng, có nhiều nhớt.

– Mật độ thả nuôi: Tuỳ theo điều kiện ao, khả năng quản lý chăm sóc và cỡ cá, có thể thả nuôi với mật độ 30 – 60 con/m2, trung bình 50 con/m2. Nếu cỡ cá nhỏ (3cm) nên thả mật độ cao hơn so với cỡ cá lớn (5 – 6cm) để trừ hao hụt trong khi nuôi. Nếu điều kiện quản lý và kiểm soát chất lượng nước chủ động, có thể tăng mật độ nuôi lên cao hơn 60 con/m2.

4. Chăm sóc và quản lý ao nuôia. Thức ăn – Cá bống cát có tính ăn tạp, ngoài thức ăn tự nhiên có trong ao như phù du động thực vật, sinh vật đáy, rong tảo sống bám, mùn bã hữu cơ… cá còn ăn được các thức ăn do con người cung cấp như ăn thức ăn chế biến và thức ăn viên công nghiệp.

– Để duy trì thức ăn tự nhiên, phải định kỳ bón thêm phân hữu cơ đã ủ hoại 10 – 15 kg/100m2/tuần hoặc 100 – 150g phân vô cơ (DAP, NPK)/tuần. Thức ăn chế biến gồm cám gạo (60 – 70%) và bột cá (30 – 40%) được trộn đều và nấu chín, trộn thêm premix khoáng và vitamin A, D, E, C (tổng cộng 0,2 – 0,3% tổng trọng lượng thức ăn). Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 25% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3,4 và 18% cho hai tháng nuôi cuối. Khẩu phần ăn 4 – 6% trọng lượng thân/ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều mát.

– Cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp cần phải chọn loại kích cỡ thức ăn phù hợp với độ lớn và kích thước miệng để cá có khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả nhất. Hàm lượng đạm trong thức ăn cũng dao động từ 25 – 28%, giảm dần theo tuổi của cá. Khẩu phần ăn thức ăn viên công nghiệp từ 1 – 1,5% trọng lượng thân/ngày và cho cá ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.

– Ngoài ra, trong thời gian nuôi, thức ăn nên có bổ sung thêm một số loại men tiêu hoá nhằm kích thích cho cá ăn ngon và tiêu hoá thức ăn tốt hơn tránh hiện tượng cá bị chướng bụng, đầy hơi.

b. Quản lý ao nuôi – Quản lý chất lượng nước: + Nước ao cần được chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi. Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá giống, mực nước ao cần đạt 0,4 – 0,5m, sau đó tiếp tục dâng từ từ, mỗi tuần cao hơn 0,2m cho đến khi mức nước đạt tốt đa. + Theo dõi mực nước hàng ngày, kiểm tra các yếu tố thuỷ lý, thuỷ hoá của nước ao như nhiệt độ nước, pH, độ trong, độ mặn. Kiểm tra bờ và cống ao đề phòng bờ bị rò rỉ do cua còng đào hang, lưới chắn bị thủng (do bị mục hoặc cua còng kẹp làm rách lưới). Vào mùa mưa, độ mặn nguồn nước cấp và nước trong ao có xu hướng giảm dần, chú ý độ mặn của nước cấp cho ao phải tương đương hoặc không quá chênh lệch với độ mặn nước ao để tránh cá bị sốc. Độ mặn của nước ao nuôi cá bống cát, dù vào mùa mưa cũng không nên để quá thấp dưới 30%0. Định kỳ mỗi tuần thay nước 1 lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước ao. Nếu nước ao bị nhiễm bẩn, màu nước xanh quá đậm hoặc chuyển màu nâu, có mùi hôi thì cần phải thay ngay nước mới trong sạch.

– Phòng trừ địch hại: + Có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn thịt cá bống cát như chim cồng cộc, rắn nước biển (con đẻn), cá nâu, cá rô phi, cá bống mọi, bống cát…Để phòng trừ địch hại, khâu quan trọng khi cải tạo ao là phải tìm diệt hết mọi cá tạp, cá dữ, khi lấy nước vào ao lúc cấp nước lần đầu hoặc các lần thay nước định kỳ, phải chắn lọc kỹ, không để cá nâu và rô phi, bóng mọi, bóng cát nhỏ lọt vào ao qua đường cấp nước. Đối với chim cồng cộc, nên đặt các bù nhìn trên bờ ao hoặc treo dây ngang dọc trên mặt ao có gắn các ống bơ (lon) sữa bò nhằm tạo ra tiếng kêu để xua đuổi chim. Có thể dùng ná (giàng thun) để bắn chim và đuổi chim cũng có hiệu quả. + Ngoài ra, để bắt các loài cá bống cát, bống mọi, có thể điều tiết mực nước trong ao (dâng cao sau đó hạ thấp 5 – 10cm) khi đó các loại cá bống mọi, bống cát có thể nằm lại ở phần mái bờ mà nước đã rút và ta dùng vợt thu gom chúng lại.

5.Thu hoạch cá nuôi – Sau 5 – 6 tháng nuôi, cá bống cát có thể đạt trọng lượng trung bình là 20-30 g/con (30-50 con/kg), tuỳ theo giá cả thị trường, người nuôi chọn thời điểm để thu hoạch. Theo kinh nghiệm của nhiều ngư dân, việc thu hoạch cá bống cát có nhiều cách, có thể dùng lưới kéo, nhưng cách này không thể thu hoạch hết cá trong ao. Ngư dân lợi dụng đặc tính thích bơi ngược nước của cá bống cát dùng một loại dụng cụ là “xà lú” để bắt cá chạy ngược nước thì có hiệu quả hơn thu triệt để hơn. Trước khi thu hoạch khoảng 10 ngày, cần giữ cho môi trường ao nuôi thật ổn định. Trước khi thuỷ triều cường thì tháo hoặc tát bớt nước ao, khi bắt đầu thuỷ triều cường thì đưa nước vào ao. Sự chênh lệch mực nước sẽ kích thích cá bống cát bơi ngược dòng nước chui vào trong xà lú. Sau mỗi đợt thu hoạch lại tát cạn ao hơn và tiếp tục cho nước thuỷ triều vào ao để bắt cá cho đến khi ao cạn hoàn toàn và thu hết cá.

– Ngoài ra để thu hoạch những cá còn “ngoan cố” không chịu ngược nước, ngư dân dùng dây thuốc cá với liều lượng thấp rải xuống ao nhằm làm cho cá phải ngoi lên mặt nước và dùng lưới để kéo, nhưng cách bắt này làm cho cá dễ chết, bán không được giá, thường để phơi làm khô cá bống cát.

– Tỷ lệ sống của cá thương phẩm nuôi bằng con giống tự nhiên hiện nay còn chưa ổn định. Theo kết quả khảo sát từ những hộ nuôi cá bống cát tại vùng Vĩnh Châu – Bạc Liêu, Long Phú (Sóc Trăng) và Bến Tre, cho thấy tỷ lệ sống cá nuôi dao động trung bình từ 15 – 50 %. Một thực tế là con giống thu từ tự nhiên thường có tỷ lệ lẫn giống các loài cá khác, có khi lẫn giống tới 30%.

– Năng suất nuôi trung bình ở các địa phương hiện nay đạt trong khoảng 1.000 – 2.000kg/ha. lợi nhuận mang lại do nuôi cá bống cát từ vài triệu đồng đến hàng chục triệu đồng/ha.

Cá Bống Tượng: Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Tượng.

Cá bống tượng là một trong các loài cá nước ngọt phổ biến ở Việt Nam, phân bố tại lưu vực các sông Mê Kông,sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ, sông Cửu Long.

Khu vực Sông Cửu Long có nắng nóng và mưa quanh năm nên thích hợp cho sự phát triển của cá bống tượng,

Ngoài ra, cá bống tượng còn được nuôi tại tỉnh Quảng Nam.

Dọc biên giới các nước Malaysia, Indonesia, Singapore là nơi ở ưa thích của cá bống tượng.

Đặc điểm : cá bống tượng có kích thước lớn nhất trong họ cá bống nước ngọt và có thân hình thoi tròn.

Cá bống tượng có hàm răng khá sắc nhọn của các loài cá ăn động vật. Thân cá có nhiều màu đen và điểm một chút vằn nâu, đầu cá to hơn so với thân. Đuôi cá có hình chữ V màu đen.

Trọng lượng trung bình của cá bống tượng là từ 50-100g lúc nhỏ. Khi chúng trưởng thành , trọng lượng lên tới vài kg. Khi thu hoạch,cá bống tượng khỏe mạnh, thịt dày và ngon. Khi chế biến thì thịt cá có màu trắng như thịt gà, có độ dai và vị ngọt.

Tập tính của cá bống tượng

Cá bống tượng có tập tính sống tại sông ngòi, kênh rạch, ao hồ, .. Việc di chuyển của chúng diễn ra theo cặp đôi, ít khi đi lẻ. Địa điểm cá bống tượng sinh sản là khu vực có nước chảy, chúng có khả năng sinh sống ở vùng nhiễm phèn, độ pH= 5,5 và độ mặn dưới 13%. Nhiệt độ thích hợp để cá bống tượng phát triển tốt là 26- 30 độ C.

Cá bống tượng thích sống ở môi trường đáy nước, ban ngày vùi mình xuống bùn và hang hốc, khi gặp nguy hiểm có thể vùi mình xuống sâu 1m, ở đó hàng chục tiếng đồng hồ. Cá bống tượng có tập tính sống ở tầng đáy, môi trường nước yên tĩnh, có cây thủy sinh làm giá đỡ.

Hoạt động tích cực vào ban đềm, ban ngày cá bống tượng có xu hướng vùi mình dưới bùn.

Ngoài ra, cá bống tượng còn là loài cá dữ điển hình, thích ăn các động vật nhỏ hơn như cá con, tép, cua, ốc tươi sống. Tập tính săn mồi của cá bống tượng rất đặc biệt ở cách săn mồi, chúng không hề rượt đuổi, chỉ nằm rình rập bắt mồi. Khi được nuôi trong ao, trong bè, cá bống tượng được cho ăn một số loại thức ăn thủy sản như thức ăn chế biến và thức ăn dạng viên.

Với cá bống tượng, nuôi trong bồn sẽ thuận lợi hơn trong ao hồ.

Khác với, được nhà thủy sản khuyến khích nuôi ở bồn, phát triển tốt và mang lại năng suất cao hơn.

Ưu điểm khi nuôi cá bống tượng trong bồn:

Quản lý môi trườn nuôi và quản lý cá dễ dàng hơn nuôi ao.

Giúp người nuôi chủ động địa điểm và quy mô nuôi cá bống tượng.

Chủ động mùa vụ thả nuôi vì không bị phụ thuộc vào thời tiết.

Mực nước khi nuôi bồn sẽ thấp hơn nuôi ao, dễ dàng quan sát quá trình cá sinh trưởng và cho cá ăn.

Khi nuôi cá bống tượng bằng bồn sử dụng lượng nước ít hơn nên sẽ thải ra lượng nước ít, hạn chế được ô nhiễm môi trường. Chi phí nuôi, chi phí lao động thấp hơn nuôi ao.

Thiết kế bể nuôi cá mồi cung cấp cho cá bống tượng

Cá mồi là thức ăn bổ sung cho cá bống tượng. Có thể sử dụng túi ni-lông làm bể nuôi cá bống tượng. Người nuôi cá có thể tận dụng nguồn nước thải từ bốn nuôi cá bống để nuôi cá mồi và đặt bể nuôi cá mồi ở nơi có ánh sáng tiếp xúc để tảo quang hợp lấy oxy vào ao. Bể nuôi cá mồi có thể sử dụng sục khí để tạo thêm oxy. Các loại cá kiểng bố mẹ ăn thức ăn viên công nghiệp kích cỡ nhỏ và có hàm lượng đạm cao.

Chuẩn bị bồn nuôi cá bống tượng như thế nào?

Bồn nuôi cá bống tượng cần có diện tích 200 m2, đủ rộng rãi để thả nuôi cá. Vốn cá bống tựơng là loài cá dữ, khi điều kiện sống bất lợi, cá lớn sẽ tấn công cá nhỏ, cần chia bồn thành 3-4 phần để dễ quản lý cá. Mỗi ngăn của bồn đều có lỗ thoát nước riêng. Đặt những ống nhựa, ống tre xuôi theo đường nước thoát. Người nuôi có thể sử dụng thân cây chuối vì nó có khả năng hút đi chất vẩn và vi sinh vật làm cho nước sạch. Khi bẹ chuối xẹp xuống và cá không chui vào được thì cần thay mới.

Bồn nuôi cá bống tượng cần được cấp thoát nước như thế nào?

Tùy vào điều kiện của từng người nuôi, có thể sử dụng mái che hoặc không.

Hình thức cấp nước: phun mưa. Pha một ít muối ăn trong mỗi lần cấp nước nhằm phòng bệnh lở loét cho cá.Thay nước định kỳ tùy vào lượng chất thải của cá.

Mật độ thả cá nuôi

Người nuôi nên thả cá với mật độ 15-40 con/m2 tùy kích cỡ cá giống. Khi cá có kích thước 4-5 cm thì thả 40 con/m2. Những chú cá khỏe thường có màu sáng, không có mầm bệnh. Nguồn giống có thể từ sinh sản nhân tạo hoặc mua gom từ khai thác tự nhiên.

Chăm sóc cá đúng cách

Phòng và trị bệnh cho cá.

Kiểm soát nguồn nước, nguồn thức ăn.

Thức ăn thủy sản cho cá bống tượng; các loại giun, tép sống, cá nhỏ,..

Thức ăn được xay nhuyễn và cắt nhỏ vừa miệng cá.

Hiện nay, có nhiều hộ đã nuôi cá bống tượng và làm giàu nhờ loài cá này. Doanh thu từ nuôi trồng cá bống tường có thể đạt 400 triệu đồng 1 năm.

Gía bán cá bống tượng loại 1 : 290.000 đồng/kg. Cá bống tượng loại 2 210.000 đồng/ kg.

Thức ăn thủy sản. Thị trường và năng suất.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Mú

Ngoài thức ăn cho cá bống mú là cá phân như cá cơm, cá trích, cá liệt…, lúc cá con mới đem về cho ăn bằng thức ăn xay nhuyễn cộng với tấm cám nấu.

Khi cá lớn bằng cùm tay bắt đầu cho cá ăn loại cá phân sống, ban đầu cho ăn 1 ngày hai cữ và khi cá lớn giảm xuống cho ăn 1 cữ/ngày.

Theo ông Trí khâu quan trọng nhất là quản lý nước trong ao, cứ 15 ngày là phải thay nước ao nuôi theo quy cách bơm ra ngoài khoảng phân nửa nước hiện có trong ao, rồi bơm nước mới từ bên ngoài vào ao với thể tích tương đương như vậy mới thích nghi được cho cá.

Ao nuôi cải tạo sên vét bùn đáy, nếu có điều kiện trải bạt càng tốt để hạn chế cá đào hang quanh bờ.

Về giống có thể thả cá giống được thu gom tự nhiên cỡ 5 – 7 cm hoặc 10 – 15 cm, hoặc chọn cá sinh sản nhân tạo.

Con giống đòi hỏi không xây xát, dị hình; màu sắc tươi sáng, hoạt động nhanh nhẹn.

Về mật độ thả, đây là loài cá dữ có thể ăn thịt lẫn nhau khi thiếu mồi, nên thả ở mật độ thưa từ 1 – 3 con/m2.

Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước, giữ các chỉ số ổn định trong giới hạn thích hợp bảo đảm cho cá phát triển bình thường.

Độ mặn từ 10 – 23 ‰ ; pH từ 7.5 – 8.5 là thích hợp thả nuôi cá bống mú.

Ông Trí cho biết thêm, để cá sống trong ao phải bố trí chà và các ống nhựa có đường kính 10 – 20 cm cho cá trú ẩn, hạn chế cá tấn công nhau gây xây xát nhiễm bệnh.

Định kỳ thu mẫu bằng cách vớt những ống nhựa lên để kiểm tra sức khoẻ cũng như tốc độ tăng trưởng của cá.

Trung bình đầu tư nuôi cá mú trong ao đất đến thu hoạch khoảng 50.000 – 60.000 đồng/con/kg, còn đầu tư nuôi cá bằng lồng bè ở ngoài biển giá thành có thể tăng gấp 2 – 3 lần và quy mô bị giới hạn so với nuôi trong ao đất mà thường xuyên bị rủi ro cao.

Từ sự thành công của bản thân ông Trí nuôi loài cá này, ông còn thành lập HTX nuôi cá bống mú trong ao đất được 15 ha với 20 xã viên được ông hướng dẫn kỹ thuật nuôi rất nhiệt tình.

Các xã viên trước đây là người dân nghèo có hoàn cảnh khó khăn nay nhờ vào HTX nuôi cá mú đã có của ăn của để.

Bên cạnh đó HTX có nguồn cá bán quanh năm cho thương lái, nên giá luôn ổn định ở mức cao.

Hiện tại trong xã Bình An có nhiều người học nuôi theo và số lượng lên khoảng 100 hộ nuôi với diện tích trên 50 ha.

Ông Vương Minh Mẫn, Trưởng phòng Kinh tế huyện Kiên Lương, cho biết: Do tập tính của cá bống mú sống trong môi trường có nguồn nước lưu thông thường xuyên nên đa số người nuôi thường thả cá vào lồng, bè treo dưới biển.

Với hình thức nuôi lồng, đối tượng này tỏ ra khá thích hợp và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi.

Song, hình thức nuôi này khá tốn kém và cá thường xuyên chịu ảnh hưởng của môi trường nước bên ngoài có nhiều biến động do ảnh hưởng xả lũ, áp thấp nhiệt đới, bão, các chất thải tàu khai thác vào neo đậu làm tăng rủi ro cao.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Tượng

Kỹ thuật nuôi cá bống tượng thương phẩm ( Oxyeleotris marmoratus Bleeker)

1. Nuôi CBT ở ao:

a. Chọn ao nuôi CBT:

Có vị trí phải gần nơi có nguồn nước sạch dồi dào, cung suốt thời gian nuôi cá (nước pH 7-8,3, nước không bị nhiễm độc, nước có cây), ao có nước lưu thông tốt thì nuôi mật độ nuôi càng cao. Đất phải giữ được nước, đất không có phèn tiềm tàng. Ao có nước thủy triều lên xuống hàng ngày nuôi cá càng tốt. Ao có diện tích 50-2000m vuông tốt nhất 300-400m vuông, nước sâu trung bình 1,5-1,8m.

b. Cải tạo ao nuôi CBT:

+ Sên vét sình bùn còn đến đáy trơ, nơi không có nước phù sa, đáy ao còn lớp bùn loãng 0,1m.

+ Xâm chặt các hang, mội, tu sửa bờ đập cao hơn mực nước cao nhất hàng năm 0,5m.

+ Ao có bộng, đầu cấp nước vào, đầu thoát nước ra càng tốt. Nếu bộng ở về một phía thì có bộng dưới thoát nước đáy ao ra, bộng trên lấy nước từ mặt sông vào hoặc có thể làm một bộng nhựa ở sát đáy ao có co điều tiết nước theo yêu cầu.

+ Bón vôi bột 7-15kg/100 m vuông ao tùy đất ao phèn nhiều ít, phơi nền đáy ao được 3-7 ngày càng tốt.

c. Giống CBT:

– Chọn giống CBT tốt: cá đều cỡ, cá khỏe mạnh, không thương tật, dị hình, cá không bị chích điện, mắc câu, mắc lưới.

+ Đầu và mình cá cân đối, màu sắc sáng rõ. Cá không có vết trầy, vết do các vật bám, nguyên đuôi và vi, cá còn nguyên nhớt. Bụng và rốn cá không đỏ. Cá không có ký sinh trùng đeo bám. Lật ngửa cá lên thì thấy cá phồng mang, đuôi xòe. Cá đang ở trong nước thì nằm sát đáy. Ngâm cá vào xanh metylen thì không có vết thấm màu.

Chọn giống CBT tốt để nuôi có ý ngĩa rất quan trọng cho thành công nuôi cá, nếu còn cá yếu, cá bệnh sẽ lây lan cả đàn cá nuôi. Khi đem CBT về, không nên thả thẳng vào nơi nuôi mà tiếp tuyển chọn lần cuối: Cho các vào một phạm vi nhỏ một góc ao mương, thời gian 10-15 ngày, cho cá ăn đủ, kiểm tra cá khỏe, tốt thì thả nuôi chung với nhau.

– Cỡ CBT đều cỡ: 50-70g, 80-100g, 110-150g, 160-200g nuôi chung một nơi cá lớn đều hơn.

+ Mật độ cá nuôi 3-10 con/m vuông: Nơi nước lưu thông liên tục 8-10 con/m vuông, nơi nước lưu thông theo thủy triều 4-5 con/m vuông, nơi có nước lưu thông ít 1-2 con/m vuông. Cá trước khi thả vào ao được tắm bằng nước muối 2-3g/ lít 10-15 phút hoặc formol 25ml/m khối nước, thuốc tím 20g/m khối nước 15-30 phút, nếu còn ký sinh trùng gỡ bằng tay.

– Trong ao nuôi CBT còn thả nuôi ghép cá tép làm thức ăn ở tại chỗ cho cá:

+ Ương nuôi tép ở ao nuôi CBT.

+ Ương nuôi cá sặt bướm, cá bảy màu chung với CBT.

+ CBT sống ở đáy, thích ăn các loài cá sống ở đáy: cá trôi Ấn Độ, cá hường. Thả thử 10% cá sống làm thức ăn, sau 5 ngày cá trôi và cá hường không còn, riêng cá mè Vinh còn một phần. Nếu các giống cá trên giá thành sản xuất 5000-7000đ/kg, hệ số thức ăn là 6 thì nuôi CBT vẫn còn lời.

d. Cho CBT ăn:

– Nuôi ghép cá tép tạo thức ăn ở tại cỗ cho CBT.

– CBT thích ăn thức ăn tươi sống, thức ăn ương thối cá không ăn, cá có ướp chất hóa học cá thường bị bệnh, cắt thức ăn vừa cỡ cho cá ăn, bỏ ruột.

– Tùy thực tế mà tăng giảm lượng thức ăn, cho ăn thức ăn vào sàn, kiểm tra sau 1 giờ, cho cá ăn ngày 3 lần sáng, chiều và tối.

– Cỡ cá nhỏ hơn 10g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 8-12.

– Cỡ cá 10-12g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 6-10.

– Cỡ cá 20-50g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 4-8.

– Cỡ cá 50-100g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 3,5-6.

– Cỡ cá 100g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 3-5.

e. Quản lý chăm sóc CBT nuôi:

– Thường xuyên thay nước sạch cho CBT, loại bỏ nước dơ: nếu sử dụng nước thủy triều thì khi nước ròng 2/3 sông chênh lệch nước ao và sông lớn, rút bộng ra nước chảy mãnh thải các chất dơ từ đáy ao ra sông. Khi nước lớn 2/3 sông, lấy nước mới vào, nước sông lớn đã hòa loãng giảm độ dơ, lấy nước sạch vào ao, kích thích cá phat triển. CBT nuôi ở nước tốt lớn nhanh hơn nước xấu, nuôi ở nước lưu thông lớn nhanh hơn nước tĩnh 24-29% và nước lưu thông nhiều nuôi mật độ càng cao.

– Đảm bảo chất lượng thức ăn là động vật cho CBT là tươi, không ướp hóa chất, số lượng cho ăn đủ, không để thức ăn dư.

– Tạo điều kiện cho cá bắt mồi liên tục, ngày và đêm: cá thường sống ở đáy làm thức ăn tự nhiên cho cá hoặc đưa cá sống từ đáy ao sang mé ao, bằng tạo mé cỏ tối nước nước dầy ở từng đoạn mương ao (thả lục bình ở nơi yên tĩnh). Khi cá đã sống ở mé ao, cá giảm bệnh, cá tép con ban ngày trú vào rong cỏ sẽ làm mồi ăn trực tiếp cho CBT. Nuôi CBT mà cá không có đớp mồi ban ngày là điều kiện sống ở ao mương chưa tốt.

– CBT là cá dữ nhưng nhát, ban ngày nằm sát đáy ao, hay hốc nên dễ bệnh ký sinh trùng (mỏ neo, rận cá,…) làm cá chậm lớn. Dùng lá xoan bó thành bó treo ở đầu cống nước ra vào hoặc dùng Dipterex (Dipterex la thuoc thu y thuy san da duoc bo thuy san cam su dung trong san xuat kinh doanh thuy san theo quyet dinh 07/2005/QD-BTS ngay 24/02/2005) liều lượng 0,7-10g/m khối nước tắm cá 10-15 phút, sau đó cho nước mới vào, cứ 3 ngày làm một lần đến khi cá hết bệnh.

– Nuôi CBT ở ao nếu tạo điều kiện cho cá ăn và nước tốt, lưu thông thì cá lớn như nuôi ở bè, cá ít bệnh so với bè.

f. Thu hoạch CBT:

– Thu tỉa thì dùng lọp, thả mồi bắt.

– Thu cuối vụ thì tát cạn, CBT thường lặn sâu vào đáy bùn có khi đến 1m, khó bắt. Cần tát cạn vào chiều mát, mò bắt sơ bộ CBT có ở ao, sau đó dùng chuối cây trang ao cho bằng, cho nước vào 5cm, nửa đêm và gần sáng CBT ngóc nằm ở mặt bùn, dùng đèn soi bắt. Có nơi còn dùng dòng nước chảy bắt cá vào đêm.

2. Nuôi CBT ở ao gắn với bè lồng:

Do điều kiện nuôi ở từng nơi, nuôi ở lồng thì vào mùa khô lượng nước ở sông rạch thấp, nước thường bị ô nhiễm, nuôi CBT thường dễ bị bệnh và cá chậm lớn, thời gian này lồng bè thường được sửa chữa và nuôi loại cá khác. CBT thịt được nuôi ở ao vào thời gian này, cá đạt cỡ 200-300g. Khi nước ở sông rạch tốt, đưa cá nuôi từ ao mương ra lồng bè nuôi vỗ béo để cá lớn nhanh, sạch, bán được giá cao. Cần có kết hợp chặt chẽ nuôi CBT ở ao và lồng bè là nâng cao hiệu quả của nuôi CBT. Kỹ thuật như phần nuôi ở ao và ở lồng bè.

3. Nuôi CBT ở ruộng lúa:

– Ruộng lúa nuôi cá trắng (mè trắng, chép trôi, mè vình, rô phi, hường …) các loại cá này chủ yếu ăn rong cỏ, mùn bả hữu cơ, sinh vật phù du. Chưa có loại cá ăn tép, cá tạp, động vật nhỏ có ở trong nước, khi đó loại cá tép con ngày có ở trong ruộng lúa rất nhiều. Khi chuẩn bị vụ lúa Đông Xuân mỗi ha có từ vài chục đến vài trăm kg cá tép vụn có thể làm thức ăn tốt cho CBT.

– Mật độ thả ghép: 1 con/5-10m vuông ruộng.

– Tạo điều kiện cho CBT ăn mồi tự nhiên ó ở ruộng: từng đoạn mương bao, chọn nơi êm, thả lục bình dầy làm nơi tối nước để CBT sống, cá tép tự nhiên vào cỏ trú, làm mồi ăn tự nhiên cho CBT.

– Cuối vụ thu hoạch cá trắng, có sản lượng cao, giá trị thấp, song giá trị CBT nuôi ghép lại cao hơn hẳn cá trắng nuôi chính.

4. Nuôi CBT ở lồng bè.

a. Chọn nơi nuôi CBT:

– Nước sông rạch, hồ chứa sạch, có dòng chảy đều, nước tốt suốt thời gian nuôi, lưu tốc nước 0,2-1m/giấy. Nơi có đủ nguyên liệu làm thức ăn cho cá.

– Cần tránh: Nơi nước nông cạn, nước không chảy, không có gió. Nơi nước chảy quá mạnh, sóng to, gió lớn, tàu bè qua lại nhiều, có tiếng động mạnh và cản trở giao thông. Nơi có nguồn nước nhiễm bẩn thuộc nông nghiệp, chất thải từ đồng ruộng, công nghiệp, nước phèn, nước đen. Nơi khúc quanh cửa sông, mùn bả hữu cơ tích tụ nhiều. Nơi có quá nhiều rong cỏ. Nơi có quá nhiều lồng bè đặt gần nhau.

b. Thiết kế lồng bè:

– Nuôi CBT nên làm lồng bè loại nhỏ: 1×1,5×1,2m 3x4x1,5m dễ xử lý quá trình nuôi. Nguyên liệu có thể bằng tre gỗ.

– Bè đóng kín 3 mặt: đáy và 2 bên hông, mặt trước và mặt sau đóng lưới hoặc nẹp tre, gỗ có kẽ thưa.

c. Thời vụ thả cá:

– Tùy môi trường nước và giống CBT có ở từng nơi mà thời vụ thả cá nuôi có thay đổi, thông thường từ tháng 6-7 đến tháng 12.

– Cỡ cá theo quy cỡ của sản xuất cá giống hay bắt tự nhiên: 50-70g, 80-100g, 160-200g. Mật độ thả từ 20-80 con/ m vuông, thông thường 25-40 con/ m vuông.

– Chất lượng giống cá trước khi thả phải thật tốt, cá đều cỡ, cá được khử trùng bằng nước muối 3-4%, tắm trong 15-20 phút hoặc Malachite green (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ 20/2003/QĐ-BTS) một phần triệu.

d. Thức ăn:

– Tận dụng thế mạnh thức ăn có ở địa phương: tôm tép, cá nhỏ, trùng, ốc, cua, … cho cá ăn trực tiếp. Thức ăn phải tươi, không được muối hóa chất. Khi nguồn thức ăn này giảm, giá cao, có thể thay một phần bằng thức ăn hỗn hợp.

+ Bột cá : 30-35%

+ Cám, bột gạo, mù, bắp: 55-60%

+ Dầu cá : 7-10%

+ Bột lá gòn : 3-5%

Công thức 2:

+ Bột cá : 30-35%

+ Cám, bột gạo, mù, bắp: 50-60%

+ Trùn đất băm nhỏ : 7-10%

+ Bột lá gòn : 3-5%

Lượng thức ăn hàng ngày 5-10% trọng lượng cá nuôi trong bè.

Thời gian cho ăn vào sáng sớm và chiều tối.

Thức ăn cho vào sàn, treo lơ lửng trong lồng bè, cách mặt nước 40-50cm. Mỗi bè lồng có 1-3 sàn ăn.

Có thể nuôi cá sống: cá săt, cá hường, cá trôi, rô phi, cá 7 màu, ốc, nhái làm thức ăn cho CBT.

e. Chăm sóc quản lý:

– Cho cá ăn đủ, đều, không để thức ăn dư thối.

– Hàng tuần cọ rửa lồng bè một lần và cọ vét thức ăn dư rơi vãi, phù sa ở đáy bè.

– Nếu cá bị bệnh trùng mỏ neo, dùng lá xoan bó thành bó để dưới đáy bè, nước lá xoan tiết ra làm trùng rơi khỏi cá.

– Nếu cá bị bệnh tuột nhớt, cuốn nhớt làm cá chết hàng loạt và nhanh chóng: cần chú ý nguồn nước qua bè nuôi chất phải tốt, không làm xây xát cá khi chuyển về bè. Thời kỳ đầu bệnh có vết trắng ở đuôi, sau đó lan dần toàn thân cá. Phòng bệnh không nên nuôi cá mật độ quá dầy, không làm xây xát cá. Dùng vôi bột 1-2kg/ m khối nước treo ở đầu nguồn nước: trị: ngâm cá trong clorua vôi nồng độ 1ppm. Tắm cá bằng Treptomycine 25mg/l trong 30 phút đến 1 giờ. Có thể dùng cao su bịt hai đầu bè cho thuốc vào bè tắm cá.

f. Thu hoạch:

– Cá nuôi sau 5-7 tháng đạt cỡ trên 400g/con thì thuhoạch.

– Hàng tháng nên đánh tỉa cá đạt tiêu chuẩn một lần. cá chưa đat nên tiếp tục nuôi và bổ sung giống.

– Cuối vụ thu hoạch tổng thể, vệ sinh bè lồng, chuẩn bị cho vụ nuôi sau.

Kỹ thuật nuôi thủy đặc sản nước ngọt – Dương Tấn Lộc – NXB TPHCM 1. Xây dựng ao:

– Ao nuôi nên đặt gần nguồn nước đế cấp và thoát dễ dàng.

– Vùng đất ít bị nhiễm phèn.

– Gần nhà để dễ quản lý và chăm sóc.

– Diện tích ao thích hợp từ 200-500m2, sâu 1,2-1,5m

2. Cải tạo ao:

– Sên vét bùn đáy, lấp kín hang hốc, lỗ mọi.

– Rào lưới xung quanh bờ ao, phòng tránh cá thoát ra ngoài.

– Bón vôi bung CaO từ 7-10kg/100m2 để nâng pH đất, diệt tạp và mầm bệnh.

– Diệt cá dữ bằng dây thuốc cá với liều lượng 1kg/70m3 nước. Sau đó lấy nước vào qua túi lọc bằng vải KT.

– Kiểm tra pH, khi pH đạt 7-8 thì tiến hành bón phân gây màu bằng:

+ Phân vô cơ: DAP + Urê (tỉ lệ 1:1) với liều lượng 2kg/1.000m2

+ Phân hữu cơ: phân chuồng đã ủ hoai (với 2-3% vôi CaO) liều lượng 80 kg/100m2

Sau khi bón phân khoảng 5-7 ngày thấy nước có màu xanh đọt chuối non (độ trong 40-50cm) thì tiến hành thả giống.

3. Thả giống:

Chọn cá khoẻ mạnh, kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng, bơi lội linh hoạt, cơ thể không xây xát. Cá giống cỡ 10-12 con/kg, thả mật độ từ 2-3 con/m2.

Nên thả giống lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Cá mới mua về trước khi thả cần tắm qua dung dịch muối có nồng độ 2% trong thời gian 5-10 phút để loại trừ kí sinh và sát trùng vết thương do xay xát trong quá trình đánh bắt và vận chuyển.

4. Chăm sóc và quản lý:

– Thức ăn sử dụng cho cá là thức ăn tươi sống (tôm, tép, cá, thịt, ốc, hến…) được cắt nhỏ để cho cá dễ ăn (thức ăn cần được rửa sạch).

– Cho cá ăn 2 lần/ngày vào lúc sáng sớm (6-7h) và chiều mát (18-19h), lượng thức ăn mỗi ngày bằng 3-5% tổng trọng lượng đàn cá trong ao.

– Dụng cụ cho cá ăn là sàng tre đan thưa, nhẵn hoặc bằng sàng lưới cước được đặt cách mặt nước 40-50cm.

– Sau khi cho cá ăn khoảng 30phút đến 1giờ kiểm tra lại sàng ăn để xem khả năng cá ăn mồi, qua đó điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp ở lần kế tiếp.

– Phải chà rửa sàng ăn mỗi ngày để tránh nấm, sinh vật ký sinh, vi khuẩn bám có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của cá.

– Thường xuyên kiểm tra bờ, cống, chống rò rĩ và mưa tràn bờ thất thoát cá. Cần kiểm tra pH của ao nhất là sau những trận mưa lớn.

– Hàng ngày thăm ao vào lúc sáng sớm quan sát hoạt động của cá và kiểm tra môi trường nước để có biện pháp xử lý kịp thời.

– Thường xuyên thay nước mới để đảm bảo nước tốt. Lượng nước thay khoảng 20% lượng nước có trong ao.

5. Phòng bệnh:

Định kỳ 10 ngày dùng vôi bột với liều lượng 5g/m3 hoà nước tạt để ngừa bệnh cho cá.

Thường xuyên bổ sung vitamine C để tăng sức đề kháng cho cá và định kỳ trộn tỏi vào thức ăn với liều lượng 4-5g/kg thức ăn để phòng bệnh đường ruột cho cá.

KS. Nguyễn Thị Thy Nga – Khuyến ngư Kiên Giang, 3/5/2006

Nhấn vào đây để xem các tin kỹ thuật nuôi cá bống tượng

Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Tượng Trong Bồn

Nuôi cá trong bồn có nhiều thuận lợi hơn so với nuôi trong ao đất. Trên cùng một diện tích, nuôi cá trong bồn tuy đầu tư chi phí ban đầu có cao hơn nhiều nhưng năng suất cao hơn gấp nhiều lần so với nuôi trong ao đất. Mặt khác, nuôi trong bồn còn có nhiều điểm thuận lợi khác như: Dễ quản lý bồn bể và cá nuôi, nhờ sự chủ động địa điểm và quy mô nuôi. Nhờ không phải phụ thuộc vào thời tiết nên chủ động mùa vụ thả nuôi.

Nuôi trong bồn nhờ mực nước cạn nên có thể dễ dàng quan sát được sự ăn mồi của cá mà tăng giảm lượng thức ăn cho phù hợp, hạn chế ô nhiễm nguồn nước cũng như tiết kiệm mồi. Dễ dàng phát hiện, ngăn chặn và xử lý khi cá có biểu hiện bệnh. Nhờ nuôi cách biệt với nền đáy nên ngăn chặn được sự thẩm lậu của vật chất hữu cơ vào trong đất. Sử dụng nguồn nước ít hơn do đó thải nước cũng ít hơn, nên hạn chế ô nhiễm môi trường. Cần ít công chăm sóc hơn so với nuôi trong ao, do đó chi phí lao động rẻ hơn.

Mục đích là nuôi cá bống tượng thương phẩm, cho nên, chúng ta phải tạo điều kiện nuôi cá mồi bổ sung thêm nguồn thức ăn thích hợp cho cá bống tượng. Có thể làm bể nuôi cá mồi bằng ni-lon, diện tích khoảng 10% diện tích bể nuôi cá bống tượng, và thiết kế sao cho bể nuôi cá mồi nầy dễ dàng hứng trọn nguồn nước thải. Do tận dụng từ nguồn nước thải của các bồn nuôi cá bống tượng, nên nền đáy bể thường xuyên bị đóng nhiều cặn bã, cần thiết phải thả cá mồi giống vào vèo lưới đặt trong bể cách nền đáy khoảng 20 cm để dễ dàng cho việc rút cặn đáy, cũng như thu hoạch cá mồi mỗi tuần. Cá thả vào để nuôi có thể là các loại cá kiểng đẻ sai như cá bảy màu hoặc cá hắc kim, bạch kim. Bể nuôi cá mồi cần đặt ở nơi có ánh nắng tiếp xúc để tảo quang hợp lấy oxy cho ao, đồng thời cũng cần bố trí hệ thống sục khí để tạo thêm oxy, giúp tăng cường sự phát triển của vi sinh vật làm thức ăn cho cá kiểng bột. Cho cá kiểng bố mẹ ăn thức ăn viên công nghiệp kích cỡ nhỏ và có hàm lượng đạm cao.

Với diện tích bồn nuôi 200m 2 là khá rộng rãi để thả nuôi cá bống tượng. Do cá bống tượng là loài cá dữ, khi điều kiện sống bất lợi, con lớn thường sẽ tấn công con nhỏ, nên cần thiết phải chia bồn ra thành 3 hoặc 4 bồn nhỏ để dễ quản lý, phân cỡ cá. Mỗi ngăn đều có cống thoát nước riêng biệt. Tu sửa lại đáy bồn sao cho có độ dốc kha khá nghiêng về phía cống thoát, để nước và cặn bã tập trung dồn về một góc và đổ vào bể nuôi cá mồi. Tạo chỗ cho cá ẩn náu bằng cách đặt càng nhiều càng tốt những ống tre, ống nhựa xuôi theo hướng nước thoát. Nếu có điều kiện thì dùng thân cây chuối, vì chuối cây có khả năng hút đi một số chất bẩn và vi sinh vật làm cho nước sạch. Có thể chặt chuối ra từng khúc 20-30cm, khoét bỏ phần ruột để cho cá bống tượng thuận tiện ra vào; hoặc bóc ra từng hai ba bẹ rồi chập lại với nhau thành hình ống đặt xuống cũng được. Thay bẹ chuối khi nhận thấy chúng đã bị mềm xẹp xuống và cá bống tượng không chui vào chui ra được.

Nếu tạo được chỗ trú ngụ tốt cho cá thì bồn nuôi không cần mái che. Nguồn nước nuôi cá có thể bơm từ sông rạch, nước giếng khoang, nước máy, nhưng cần phải đảm bảo nước sạch, không quá vẩn đục và không bị chua phèn. Cấp nước cho bồn nuôi theo hình thức phun mưa, (ống nhựa cấp nước được đục nhiều lỗ nhỏ hướng xuống mặt bồn). Có thể pha một ít muối ăn trong mỗi lần cấp nước để phòng bệnh lở loét cho cá. Thay nước bồn bằng cách đùa dồn cặn bã về phía cống thoát, để vài giờ cho chìm lắng rồi xả bộng cho nước và cặn bã đổ vào bể nuôi cá mồi. Mỗi lần xả bỏ chỉ khoảng 30% lượng nước trong bồn. Định kỳ thay nước tùy theo điều kiện cũng như tùy vào lượng chất thải của cá.

Thả khoảng 15-40 con/m2 tùy kích cỡ cá giống. Cá giống cỡ 4-5cm thì thả 40con/m 2, cá giống cỡ 10-12cm thả khoảng 20 con/m 2. Con giống thả nuôi khỏe, có màu sắc sáng, không có mầm bệnh. Nguồn từ sinh sản nhân tạo hoặc mua gom từ khai thác tự nhiên. Cần tuyển lựa cá cho thật đều cỡ thả vào chung một ngăn bồn.

Thức ăn thích hợp cho cá bống tượng là trùn chỉ, cá, tép sống … Tuy nhiên, trong điều kiện bồn nuôi có sục khí và đầy đủ oxy thì cá bống tượng có thể sử dụng tốt nguồn thức ăn chế biến có hàm lượng đạm cao. Nếu là cho ăn mồi không phải là cá sống thì cần cho thức ăn vào sàn để dễ quan sát hoạt động bắt mồi của cá, cũng như theo dõi lượng ăn mồi để tăng hoặc giảm cho phù hợp. Cho cá ăn mỗi ngày 2 lần vào giác sáng, chiều. Thức ăn được xay nhuyễn hoặc cắt nhỏ sao cho vừa miếng ăn của cá. Cá cỡ nhỏ lượng thức ăn cung cấp khoảng 10% trong lượng thân cá và giảm dần đến 3-4% khi cá lớn. Cung cấp khoảng 6 kg cá mồi thì thu được 1 kg cá bống tượng thịt. Khi cá còn nhỏ, lượng cá mồi tự nuôi vớt cho cá ăn có thể đảm bảo được khoảng 20% tổng số lượng thức ăn. Nhưng khi cá lớn thì lượng cá mồi nuôi chủ yếu để bù đắp thêm vitamin thiếu hụt. Định kỳ bổ sung thêm vào thức ăn một lượng vitamin C, khoảng 0,5gr/10kg thức ăn của cá.

Nếu thả cá giống cỡ 4-5cm, sau 3 tháng nuôi cá đạt trọng lượng từ 50-70gr/con. Tiến hành phân cỡ rồi tiếp tục thả vào các ngăn. Năng suất thu hoạch ở giai đoạn nầy khoảng 2 kg cá giống bống tượng trên mỗi mét vuông bồn nuôi, (bồn 200m2 thu được khoảng 400 kg cá giống). Nuôi thêm một thời gian nữa tùy theo yêu cầu thu hoạch cá giống lớn hay cá thương phẩm.

Nếu thả cá giống cỡ 10-12 cm, nuôi khoảng 10 tháng, cá có trọng lượng hơn 400gr/con chiếm khoảng 50% tổng đàn.

Nếu thả cá giống cỡ 100 gr/con, nuôi khoảng 7 tháng thì cá có trọng lượng hơn 400gr/con chiếm 60% tổng đàn.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Tượng Thương Phẩm

a. Chọn ao nuôi cá bống tượng:

Có vị trí phải gần nơi có nguồn nước sạch dồi dào, cung suốt thời gian nuôi cá (nước pH 7-8,3, nước không bị nhiễm độc, nước có cây), ao có nước lưu thông tốt thì nuôi mật độ nuôi càng cao. Đất phải giữ được nước, đất không có phèn tiềm tàng. Ao có nước thủy triều lên xuống hàng ngày nuôi cá càng tốt. Ao có diện tích 50-2000m vuông tốt nhất 300-400m vuông, nước sâu trung bình 1,5-1,8m.

b. Cải tạo ao nuôi cá bống tượng:

+ Sên vét sình bùn còn đến đáy trơ, nơi không có nước phù sa, đáy ao còn lớp bùn loãng 0,1m.

+ Xâm chặt các hang, mội, tu sửa bờ đập cao hơn mực nước cao nhất hàng năm 0,5m.

+ Ao có bộng, đầu cấp nước vào, đầu thoát nước ra càng tốt. Nếu bộng ở về một phía thì có bộng dưới thoát nước đáy ao ra, bộng trên lấy nước từ mặt sông vào hoặc có thể làm một bộng nhựa ở sát đáy ao có co điều tiết nước theo yêu cầu.

+ Bón vôi bột 7-15kg/100 m vuông ao tùy đất ao phèn nhiều ít, phơi nền đáy ao được 3-7 ngày càng tốt.

c. Giống cá bống tượng:

– Chọn giống cá bống tượng tốt: cá đều cỡ, cá khỏe mạnh, không thương tật, dị hình, cá không bị chích điện, mắc câu, mắc lưới.

+ Đầu và mình cá cân đối, màu sắc sáng rõ. Cá không có vết trầy, vết do các vật bám, nguyên đuôi và vi, cá còn nguyên nhớt. Bụng và rốn cá không đỏ. Cá không có ký sinh trùng đeo bám. Lật ngửa cá lên thì thấy cá phồng mang, đuôi xòe. Cá đang ở trong nước thì nằm sát đáy. Ngâm cá vào xanh metylen thì không có vết thấm màu.

Chọn giống cá bống tượng tốt để nuôi có ý ngĩa rất quan trọng cho thành công nuôi cá, nếu còn cá yếu, cá bệnh sẽ lây lan cả đàn cá nuôi. Khi đem CBT về, không nên thả thẳng vào nơi nuôi mà tiếp tuyển chọn lần cuối: Cho các vào một phạm vi nhỏ một góc ao mương, thời gian 10-15 ngày, cho cá ăn đủ, kiểm tra cá khỏe, tốt thì thả nuôi chung với nhau.

– Cỡ cá bống tượng đều cỡ: 50-70g, 80-100g, 110-150g, 160-200g nuôi chung một nơi cá lớn đều hơn.

+ Mật độ cá nuôi 3-10 con/m vuông: Nơi nước lưu thông liên tục 8-10 con/m vuông, nơi nước lưu thông theo thủy triều 4-5 con/m vuông, nơi có nước lưu thông ít 1-2 con/m vuông. Cá trước khi thả vào ao được tắm bằng nước muối 2-3g/ lít 10-15 phút hoặc formol 25ml/m khối nước, thuốc tím 20g/m khối nước 15-30 phút, nếu còn ký sinh trùng gỡ bằng tay.

– Trong ao nuôi cá bống tượng còn thả nuôi ghép cá tép làm thức ăn ở tại chỗ cho cá:

+ Ương nuôi tép ở ao nuôi cá bống tượng.

+ Ương nuôi cá sặt bướm, cá bảy màu chung với cá bống tượng.

+ Cá bống tượng sống ở đáy, thích ăn các loài cá sống ở đáy: cá trôi Ấn Độ, cá hường. Thả thử 10% cá sống làm thức ăn, sau 5 ngày cá trôi và cá hường không còn, riêng cá mè Vinh còn một phần. Nếu các giống cá trên giá thành sản xuất 5000-7000đ/kg, hệ số thức ăn là 6 thì nuôi CBT vẫn còn lời.

d. Cho cá bống tượng ăn:

– Nuôi ghép cá tép tạo thức ăn ở tại cỗ cho CBT.

– Cá bống tượng thích ăn thức ăn tươi sống, thức ăn ương thối cá không ăn, cá có ướp chất hóa học cá thường bị bệnh, cắt thức ăn vừa cỡ cho cá ăn, bỏ ruột.

– Tùy thực tế mà tăng giảm lượng thức ăn, cho ăn thức ăn vào sàn, kiểm tra sau 1 giờ, cho cá ăn ngày 3 lần sáng, chiều và tối.

– Cỡ cá nhỏ hơn 10g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 8-12.

– Cỡ cá 10-12g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 6-10.

– Cỡ cá 20-50g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 4-8.

– Cỡ cá 50-100g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 3,5-6.

– Cỡ cá 100g/con, tỷ lệ % thức ăn so với trọng lượng cá 3-5.

e. Quản lý chăm sóc cá bống tượng nuôi:

– Thường xuyên thay nước sạch cho cá bống tượng, loại bỏ nước dơ: nếu sử dụng nước thủy triều thì khi nước ròng 2/3 sông chênh lệch nước ao và sông lớn, rút bộng ra nước chảy mãnh thải các chất dơ từ đáy ao ra sông. Khi nước lớn 2/3 sông, lấy nước mới vào, nước sông lớn đã hòa loãng giảm độ dơ, lấy nước sạch vào ao, kích thích cá phat triển. CBT nuôi ở nước tốt lớn nhanh hơn nước xấu, nuôi ở nước lưu thông lớn nhanh hơn nước tĩnh 24-29% và nước lưu thông nhiều nuôi mật độ càng cao.

– Đảm bảo chất lượng thức ăn là động vật cho cá bống tượng là tươi, không ướp hóa chất, số lượng cho ăn đủ, không để thức ăn dư.

– Tạo điều kiện cho cá bắt mồi liên tục, ngày và đêm: cá thường sống ở đáy làm thức ăn tự nhiên cho cá hoặc đưa cá sống từ đáy ao sang mé ao, bằng tạo mé cỏ tối nước nước dầy ở từng đoạn mương ao (thả lục bình ở nơi yên tĩnh). Khi cá đã sống ở mé ao, cá giảm bệnh, cá tép con ban ngày trú vào rong cỏ sẽ làm mồi ăn trực tiếp cho CBT. Nuôi CBT mà cá không có đớp mồi ban ngày là điều kiện sống ở ao mương chưa tốt.

– Nuôi cá bống tượng ở ao nếu tạo điều kiện cho cá ăn và nước tốt, lưu thông thì cá lớn như nuôi ở bè, cá ít bệnh so với bè.

f. Thu hoạch cá bống tượng:

– Thu tỉa thì dùng lọp, thả mồi bắt.

– Thu cuối vụ thì tát cạn, cá bống tượng thường lặn sâu vào đáy bùn có khi đến 1m, khó bắt. Cần tát cạn vào chiều mát, mò bắt sơ bộ CBT có ở ao, sau đó dùng chuối cây trang ao cho bằng, cho nước vào 5cm, nửa đêm và gần sáng cá bống tượng ngóc nằm ở mặt bùn, dùng đèn soi bắt. Có nơi còn dùng dòng nước chảy bắt cá vào đêm.

2. Nuôi cá bống tượng ở ao gắn với bè lồng:

Do điều kiện nuôi ở từng nơi, nuôi ở lồng thì vào mùa khô lượng nước ở sông rạch thấp, nước thường bị ô nhiễm, nuôi bống tượng thường dễ bị bệnh và cá chậm lớn, thời gian này lồng bè thường được sửa chữa và nuôi loại cá khác. Cá bống tượng thịt được nuôi ở ao vào thời gian này, cá đạt cỡ 200-300g. Khi nước ở sông rạch tốt, đưa cá nuôi từ ao mương ra lồng bè nuôi vỗ béo để cá lớn nhanh, sạch, bán được giá cao. Cần có kết hợp chặt chẽ nuôi cá bống tượng ở ao và lồng bè là nâng cao hiệu quả của nuôi CBT. Kỹ thuật như phần nuôi ở ao và ở lồng bè.

3. Nuôi cá bống tượng ở ruộng lúa:

– Ruộng lúa nuôi cá trắng (mè trắng, chép trôi, mè vình, rô phi, hường …) các loại cá này chủ yếu ăn rong cỏ, mùn bả hữu cơ, sinh vật phù du. Chưa có loại cá ăn tép, cá tạp, động vật nhỏ có ở trong nước, khi đó loại cá tép con ngày có ở trong ruộng lúa rất nhiều. Khi chuẩn bị vụ lúa Đông Xuân mỗi ha có từ vài chục đến vài trăm kg cá tép vụn có thể làm thức ăn tốt cho CBT.

– Mật độ thả ghép: 1 con/5-10m vuông ruộng.

– Tạo điều kiện cho CBT ăn mồi tự nhiên ó ở ruộng: từng đoạn mương bao, chọn nơi êm, thả lục bình dầy làm nơi tối nước để CBT sống, cá tép tự nhiên vào cỏ trú, làm mồi ăn tự nhiên cho CBT.

– Cuối vụ thu hoạch cá trắng, có sản lượng cao, giá trị thấp, song giá trị CBT nuôi ghép lại cao hơn hẳn cá trắng nuôi chính.

4. Nuôi cá bống tượng ở lồng bè. a. Chọn nơi nuôi cá bống tượng:

– Nước sông rạch, hồ chứa sạch, có dòng chảy đều, nước tốt suốt thời gian nuôi, lưu tốc nước 0,2-1m/giấy. Nơi có đủ nguyên liệu làm thức ăn cho cá.

– Cần tránh: Nơi nước nông cạn, nước không chảy, không có gió. Nơi nước chảy quá mạnh, sóng to, gió lớn, tàu bè qua lại nhiều, có tiếng động mạnh và cản trở giao thông. Nơi có nguồn nước nhiễm bẩn thuộc nông nghiệp, chất thải từ đồng ruộng, công nghiệp, nước phèn, nước đen. Nơi khúc quanh cửa sông, mùn bả hữu cơ tích tụ nhiều. Nơi có quá nhiều rong cỏ. Nơi có quá nhiều lồng bè đặt gần nhau.

b. Thiết kế lồng bè:

– Nuôi cá bống tượng nên làm lồng bè loại nhỏ: 1×1,5×1,2m 3x4x1,5m dễ xử lý quá trình nuôi. Nguyên liệu có thể bằng tre gỗ.

– Bè đóng kín 3 mặt: đáy và 2 bên hông, mặt trước và mặt sau đóng lưới hoặc nẹp tre, gỗ có kẽ thưa.

c. Thời vụ thả cá:

– Tùy môi trường nước và giống CBT có ở từng nơi mà thời vụ thả cá nuôi có thay đổi, thông thường từ tháng 6-7 đến tháng 12.

– Cỡ cá theo quy cỡ của sản xuất cá giống hay bắt tự nhiên: 50-70g, 80-100g, 160-200g. Mật độ thả từ 20-80 con/ m vuông, thông thường 25-40 con/ m vuông.

d. Thức ăn:

– Tận dụng thế mạnh thức ăn có ở địa phương: tôm tép, cá nhỏ, trùng, ốc, cua, … cho cá ăn trực tiếp. Thức ăn phải tươi, không được muối hóa chất. Khi nguồn thức ăn này giảm, giá cao, có thể thay một phần bằng thức ăn hỗn hợp.

+ Bột cá : 30-35%

+ Cám, bột gạo, mù, bắp: 55-60%

+ Dầu cá : 7-10%

+ Bột lá gòn : 3-5%

Công thức 2:

+ Bột cá : 30-35%

+ Cám, bột gạo, mù, bắp: 50-60%

+ Trùn đất băm nhỏ : 7-10%

+ Bột lá gòn : 3-5%

Lượng thức ăn hàng ngày 5-10% trọng lượng cá nuôi trong bè.

Thời gian cho ăn vào sáng sớm và chiều tối.

Thức ăn cho vào sàn, treo lơ lửng trong lồng bè, cách mặt nước 40-50cm. Mỗi bè lồng có 1-3 sàn ăn.

Có thể nuôi cá sống: cá săt, cá hường, cá trôi, rô phi, cá 7 màu, ốc, nhái làm thức ăn cho CBT.

e. Chăm sóc quản lý:

– Cho cá ăn đủ, đều, không để thức ăn dư thối.

– Hàng tuần cọ rửa lồng bè một lần và cọ vét thức ăn dư rơi vãi, phù sa ở đáy bè.

– Nếu cá bị bệnh trùng mỏ neo, dùng lá xoan bó thành bó để dưới đáy bè, nước lá xoan tiết ra làm trùng rơi khỏi cá.

– Nếu cá bị bệnh tuột nhớt, cuốn nhớt làm cá chết hàng loạt và nhanh chóng: cần chú ý nguồn nước qua bè nuôi chất phải tốt, không làm xây xát cá khi chuyển về bè. Thời kỳ đầu bệnh có vết trắng ở đuôi, sau đó lan dần toàn thân cá. Phòng bệnh không nên nuôi cá mật độ quá dầy, không làm xây xát cá. Dùng vôi bột 1-2kg/ m khối nước treo ở đầu nguồn nước: trị: ngâm cá trong clorua vôi nồng độ 1ppm. Tắm cá bằng Treptomycine 25mg/l trong 30 phút đến 1 giờ. Có thể dùng cao su bịt hai đầu bè cho thuốc vào bè tắm cá.

f. Thu hoạch:

– Cá nuôi sau 5-7 tháng đạt cỡ trên 400g/con thì thuhoạch.

– Hàng tháng nên đánh tỉa cá đạt tiêu chuẩn một lần. cá chưa đat nên tiếp tục nuôi và bổ sung giống.

– Cuối vụ thu hoạch tổng thể, vệ sinh bè lồng, chuẩn bị cho vụ nuôi sau.

Cập nhật thông tin chi tiết về Kỹ Thuật Nuôi Cá Bống Cát trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!