Bạn đang xem bài viết Kinh Bắc: Sống Khỏe Nhờ Giữ Trọn Chữ Tín – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Từng bước đi lên
Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi Kinh Bắc được thành lập từ năm 2006, là đơn vị trực thuộc Công ty CP Tập đoàn DABACO Việt Nam – một trong những thương hiệu xuất hiện sớm nhất trên thị trường thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam và là một trong 10 doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi lớn nhất cả nước.
Những ngày đầu khi mới đi vào hoạt động, Kinh Bắc cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do quy mô chăn nuôi, nhất là chăn nuôi thủy sản còn manh mún, chưa được đầu tư đồng bộ; người tiêu dùng chưa có thói quen sử dụng thức ăn công nghiệp và vẫn tồn tại tâm lý chuộng thức ăn ngoại… Tuy nhiên, với quyết tâm cao của Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ, nhân viên, Kinh Bắc đã từng bước khắc phục khó khăn, đưa hoạt động sản xuất dần đi vào ổn định và phát triển.
Giám đốc Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi Kinh Bắc, ông Nguyễn Đình Toàn cho biết: “Nhiều năm qua, Nhà máy luôn đạt tốc độ tăng trưởng tốt, từ 10 – 15%/năm, doanh thu và lợi nhuận hàng năm tăng theo mục tiêu đề ra. Hiện nay, Nhà máy có hơn 500 đại lý phân phối tại các tỉnh, thành trong cả nước”.
“Bên cạnh đó, xác định rõ con người là yếu tố trung tâm, là giá trị cốt lõi của Nhà máy nên Ban lãnh đạo Kinh Bắc luôn đặt chính sách tổ chức, bồi dưỡng đào tạo lao động là yếu tố quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển. Theo đó, Kinh Bắc thường xuyên triển khai các lớp đào tạo về nghiệp vụ, chuyên môn để nâng cao tay nghề cho công nhân của Nhà máy. Ngoài ra, Kinh Bắc cũng tổ chức nhiều buổi tập huấn, hội thảo, giới thiệu những mô hình thành công… cho bà con nông dân nhằm chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật mới, từ đó giúp bà con nâng cao năng suất, chất lượng vật nuôi và thủy sản”, ông Toàn cho biết thêm.
Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi Kinh Bắc nằm tại Cụm công nghiệp Khắc Niệm, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Hướng đến bền vững
Những dòng sản phẩm của Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi Kinh Bắc luôn cung cấp đủ thành phần dinh dưỡng phù hợp từng đối tượng, từng giai đoạn phát triển của vật nuôi. Các sản phẩm cho heo con, heo nái, heo thịt, heo hậu bị hay cho gà, vịt, chim cút, thỏ… đều được người tiêu dùng đánh giá cao. Dây chuyền sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm của Kinh Bắc hiện đang hoạt động với công suất 25 tấn/h, tương đương khoảng 150.000 tấn/năm.
Kho thành phẩm của Kinh Bắc tại Bắc Ninh
Không chỉ chú trọng các dòng sản phẩm thức ăn cho gia súc, gia cầm, Kinh Bắc còn phát triển cả những dòng sản phẩm cho vật nuôi thủy sản, nhất là thức ăn cho cá có vảy (rô phi, trôi, chép…), cá điêu hồng, cá da trơn (tra, basa…), cá hồi, cá tầm, cá biển…
Đối với dây chuyền sản xuất thức ăn thủy sản, dự kiến trong 2 năm 2013 – 2014, Kinh Bắc sẽ hoàn thiện hệ thống dây chuyền ép đùn và sấy Wenger (Đức) nhằm gia tăng giá trị dinh dưỡng, tăng độ bền của thức ăn trong nước, có kích cỡ viên khác nhau phù hợp với từng lứa tuổi, trọng lượng cá, từ cá giống đến cá thịt. Sang năm 2015, Kinh Bắc sẽ đảm bảo đạt năng suất tối đa 10 tấn/h, tương ứng khoảng hơn 60.000 tấn/năm, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thức ăn thủy sản, giúp người chăn nuôi chuyển hướng từ nuôi trồng thủy sản theo phương pháp quảng canh sang công nghiệp, góp phần tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản của Bắc Ninh và các tỉnh phía Bắc.
Dự kiến từ năm 2015, dây chuyền sản xuất thức ăn thủy sản của Kinh Bắc sẽ đảm bảo năng suất tối đa 10 tấn/h
Mặc dù có sự cạnh tranh rất lớn trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi nhưng những sản phẩm của Kinh Bắc vẫn luôn giữ được vị thế cao và được người tiêu dùng tin tưởng chọn lựa do được sản xuất trên dây chuyền công nghệ cao, đạt tiêu chuẩn ISO, HACCP… giúp vật nuôi lớn nhanh, hệ số FCA (tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng) thấp, từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng vẫn đảm bảo giữ môi trường sạch.
Lấy chữ “Tín” làm đầu
Một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công cho Kinh Bắc chính là “giữ trọn chữ Tín”. Trong kinh doanh, nói giữ chữ “Tín” thì dễ, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng làm được điều này bởi muốn trung thành với nó sẽ phải mất đi rất nhiều, thậm chí có lúc phải chịu thiệt về doanh thu. Nhưng muốn làm ăn lâu dài, thì giữ chữ “Tín” lại chính là điểm mạnh để có những bước đi thành công bền vững.
Chữ “Tín” được Kinh Bắc thực hiện trước hết thông qua việc đảm bảo tiền lương, bảo hiểm và các chế độ cho người lao động. Song song với đó, Kinh Bắc còn tổ chức nhiều chương trình nhằm giúp đỡ những công nhân có hoàn cảnh khó khăn đang làm việc tại Nhà máy. Đồng thời, thường xuyên có các hoạt động giao lưu, kết nối, du lịch… để nâng cao tinh thần đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm giữa các nhân viên, từ đó giúp nâng cao năng suất và hiệu quả trong công việc.
Đối với cơ quan quản lý, Kinh Bắc luôn minh bạch trong thực hiện chính sách thuế cũng như tuân thủ chặt chẽ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù chi phí kiểm soát chất lượng sản phẩm rất tốn kém nhưng Kinh Bắc vẫn duy trì chặt chẽ và đều đặn.
Trên thương trường, Kinh Bắc luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm thước đo cho sự phát triển. Cam kết cung cấp những sản phẩm chất lượng tốt nhất và luôn sát cánh cùng khách hàng để hợp tác lâu dài và phát triển.
Đặc Sản, Dễ Nuôi – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Cá hô – đối tượng thủy sản có giá trị cao Ảnh: PTC
Đặc điểm sinh học
Cá hô thuộc họ cá chép Cyprinidae và có tên khoa học là Catlocarpio siamensis. Phần trước thân của cá hơi tròn và cao, phần sau dẹp bên; Cao thân khoảng 1/3 dài chuẩn; Đầu rất to, đỉnh đầu rộng, giữa mắt và mõm của phần lưng đầu lõm xuống; cá không có râu, khe mang rộng, thân phủ vảy tròn to; Đầu và lưng có màu nâu xám hoặc ánh xanh, nhạt dần xuống bụng trắng bạc; Mắt cá to, vảy to, vây lưng cao, gốc vây lưng, vây hậu môn có phủ vảy nhỏ. Bụng màu trắng bạc, các vây hơi phớt hồng, cuối các tia vây màu đen. Cá hô thường sinh sống ở những hố lớn cạnh bờ những dòng sông lớn, nhưng chúng cũng có thể bơi vào những kênh, rạch, sông nhỏ để kiếm thức ăn trong một số thời điểm. Chúng phân bố chủ yếu tại Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam (phân bố ở Châu Đốc, sông Mê Kông). Người ta đã bắt được cá hô dài tới 3 m, nặng khoảng 300 kg; ở Việt Nam thỉnh thoảng đánh bắt được cá hô loại 100 – 200 kg. Cá hô là loài ăn tạp, thức ăn của chúng có thể là thực vật phiêu sinh, rong, trái của thực vật trên cạn, thực vật thủy sinh và các động vật không xương sống thủy sinh…
Cho lãi lớn
Cá hô tuy là loài quý hiếm, trước đây cá chủ yếu là đánh bắt nhưng thời gian gần đây người dân ở miền Tây đã nuôi rất thành công giống cá này trong ao. Cá có thể trọng lớn, thịt thơm ngon, vị ngọt và dai nên rất được ưu chuộng trên thị trường và được các nhà hàng lớn thu mua. Cá hô đạt 4 – 6 kg/con trên thị trường có giá khoảng 80.000 – 120.000 đồng/kg, tuy nhiên có thể lên đến 1 – 2 triệu đồng/kg đối với cá 30 kg trở lên. Từ năm 2005, nước ta đã cho sinh sản nhân tạo thành công loài cá quý này tại Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II, tiếp đến Trung tâm Giống thủy sản An Giang cũng đã sản xuất nhân tạo thành công giống cá này. Nhờ chủ động được nguồn giống nên nghề nuôi cá hô phát triển mạnh ở nhiều địa phương của nước ta như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang…
Cá hô có thể nuôi đơn trong ao, lồng bè, đăng quầng. Với tốc độ tăng trọng 2 – 3 kg/năm, chúng có thể được nuôi đơn trong ao hoặc lồng bè với mật độ 3 – 4 con/m2; ngoài ra, còn có thể thả ghép với các loài cá nước ngọt khác, với mật độ 10 m2/con, để tận dụng thức ăn. Ở miền Nam, cá hô có thể thả nuôi quanh năm do khí hậu ấm áp, cá phát triển tốt. Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, việc đưa cá hô vào nuôi không những mang lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần bảo tồn tài nguyên quốc gia.
Khấm Khá Nhờ Nuôi Cá Lóc Bằng Thức Ăn Up – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Tận dụng lợi thế
Là đối tượng nuôi có nhiều lợi thế do thích nghi với đa dạng địa hình, dễ nuôi, ít dịch bệnh. Những năm trở lại đây, nhiều tỉnh, thành tại khu vực ĐBSCL đã phát triển mô hình nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp.
Tại Cần Thơ, thời gian qua, con cá lóc được nông dân tại nhiều quận, huyện của thành phố nuôi theo các mô hình nuôi ao, hầm, nuôi vèo đặt trong ao, vèo đặt trên sông… Tuy nhiên, người dân chủ yếu sử dụng các loại cá tạp tươi sống để làm mồi nuôi cá lóc, nên việc phát triển mô hình gặp khó khăn do nguồn thức ăn thường bị thiếu hụt và không ổn định về chất lượng. Chính vì vậy, các mô hình nuôi cá lóc, nhất là nuôi cá lóc trong vèo chỉ được nông dân phát triển mạnh vào mùa lũ – thời điểm mà nguồn cá tạp trong tự nhiên dồi dào nhất trong năm. Song, việc khai thác đánh bắt quá mức các loại thủy sản trong tự nhiên thời gian qua khiến lượng cá tạp mùa lũ giảm dần, nguồn cung hạn chế, giá bán cao, lợi nhuận của người nuôi cá cũng giảm theo. Chính vì vậy, việc chuyển đổi sang thức ăn công nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nuôi. Bởi, chủ động được nguồn thức ăn và tiết kiệm được thời gian, chi phí, giảm tác động đến môi trường, lợi nhuận không thua gì so với cách nuôi cá lóc bằng thức ăn truyền thống.
Năm 2014, Sở Khoa học và Công nghệ Bạc Liêu chuyển giao cho Trung tâm Thực nghiệm và chuyển giao khoa học công nghệ huyện Phước Long đề tài Thử nghiệm mô hình nuôi cá lóc đầu nhím trong ao đất sử dụng thức ăn công nghiệp. Bà Nguyễn Thị Kim Hồng, Giám đốc Trung tâm cho biết, qua kết quả triển khai thực hiện thử nghiệm đề tài cho thấy, mô hình nuôi cá lóc đầu nhím trong ao đất sử dụng thức ăn công nghiệp cho hiệu quả khả quan và có khả năng nhân rộng. Chính vì vậy, mô hình đã được phát triển tại nhiều tỉnh, thành ở khu vực ĐBSCL như Đồng Tháp, Trà Vinh, An Giang, Cần Thơ…
Hiệu quả cao
Nhiều năm liền, ông Trần Văn Hướng nuôi cá đều thành công nhờ sử dụng thức ăn cá lóc nhãn hiện UP Ảnh: Nguyên Chi
Từ lâu, thị xã Hồng Ngự được xem là cái nôi của nghề nuôi cá tra ở Đồng Tháp; được thiên nhiên ưu đãi nên nhiều cư dân nơi đây phất lên nhờ gắn bó với loài cá đặc biệt ở vùng sông Mê Kông này. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây nghề nuôi cá tra bước vào giai đoạn cạnh tranh và đào thải khốc liệt, các nhà nhập khẩu lớn như: Mỹ, EU… ngày càng xiết chặt hàng rào thuế quan đối với cá tra xuất khẩu của Việt Nam, nông dân nuôi cá tra lâm vào tình cảnh khốn khó. Trước khó khăn đó, người dân đã tìm ra hướng đi mới với con cá lóc bởi giá trị kinh tế mà đối tượng này mang lại. Còn tại Trà Vinh, đối với riêng huyện Trà Cú, năm 2016, toàn huyện có 1.607 hộ thả nuôi với hơn 96 triệu con giống, trên tổng diện tích gần 229 ha, tăng gần 25 ha so với năm trước. Phong trào nuôi cá lóc phát triển nhanh đã giúp nhiều hộ nông dân cải thiện kinh tế, tăng thu nhập. Nghề nuôi cá lóc ở Trà Vinh cũng đã từng bước tạo thương hiệu trên thị trường, sản phẩm được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; mặc dù có những giai đoạn cá lóc nuôi gặp khó do giá giảm, nhưng do được đầu tư bài bản nghiêm ngặt, nên hầu hết các hộ nuôi đều duy trì được sản xuất.
Hồng Ngự không những là thủ phủ sản xuất cá tra giống tại Đồng Tháp mà còn là vùng trọng điểm phát triển diện tích nuôi cá lóc khu vực ĐBSCL; nghề nuôi cá lóc đã giúp bà con nơi đây ổn định kinh tế, gia tăng sản xuất, nhiều hộ nuôi đã chuyển diện tích nuôi cá tra sang nuôi cá lóc cho thu nhập khá. Theo thống kê, toàn huyện Hồng Ngự có khoảng gần 200 ha nuôi cá lóc, sản lượng khoảng 12.000 tấn.
Là hộ nuôi có nhiều kinh nghiệm, ông Trần Văn Hướng, ngụ tại ấp An Thịnh, xã An Bình A, thị xã Hồng Ngự, Đồng Tháp với khoảng 5 ha gồm 9 ao nuôi cá lóc từ lâu đã trở thành địa điểm tham quan, học hỏi kinh nghiệm của người nuôi trong và ngoài tỉnh.
Ông Hướng bắt đầu nuôi cá lóc từ năm 2013 với 5 ha dưới hình thức nuôi ao đất, mật độ thả nuôi 60 – 80 con/m2, thả xen kẽ giữa các ao, nuôi 2 vụ mỗi năm, thời gian nuôi 4 – 6 tháng. Năm 2017, sản lượng thu đạt 50 – 70 tấn/ao, đạt khoảng 400 tấn cá/vụ, với giá bán 30.000 – 31.000 đồng/kg, thu khoảng hơn 1 tỷ đồng.
Theo ông Hướng, để đầu tư một ao nuôi cá lóc có diện tích khoảng 1 ha nông dân phải tốn ít nhất khoảng 150 triệu đồng chi phí xây dựng cơ bản bao gồm: chi phí đào ao, đặt đường ống bơm thoát nước, khoan giếng. Khoảng 60 triệu đồng cho chi phí con giống, cuối cùng là chi phí thức ăn và thuốc phòng trị bệnh khoảng 600 triệu đồng.
Sau khoảng 4 – 6 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng bình quân khoảng 800 g đến 1 kg/con là có thể thu hoạch. Cá lóc có tỷ lệ sống cao, trung bình đạt khoảng 80%, đối với thức ăn công nghiệp, hệ số chuyển đổi thức ăn FCR khoảng 1 – 1.3 kg thức ăn/kg cá tùy thuộc vào loại thức ăn và kỹ thuật của người nuôi.
Chia sẻ kinh nghiệm
Ông Hướng cho biết, diện tích ao sử dụng nuôi khoảng 1.000 m2, ao hình chữ nhật để tiện việc chăm sóc quản lý và thu hoạch. Bờ ao phải vững chắc tránh bị sạt lở và không bị ngập nước vào mùa lũ. Cá giống chọn đều cỡ, không bị dị tật, bóng mượt, không xây xát; nên thả nuôi với mật độ vừa phải để dễ quản lý, hạn chế dịch bệnh xảy ra. Nếu không gian chật hẹp, cá sẽ chậm lớn và hao đầu con ảnh hưởng đến chi phí nuôi cũng như hệ số tiêu tốn thức ăn sẽ tăng cao. Mật độ thả nuôi 30 – 100 con/m2 (thích hợp 40 – 60 con/m2). Độ sâu ao nuôi lớn hơn 2 m, một số hộ nuôi có thể có thể tận dụng ao nuôi cá tra để nuôi nên độ sâu có thể lên đến 3,5 – 5 m. Trên bờ, ông Hướng còn trồng cây ăn quả, vừa tạo bóng mát vừa tạo cảnh quan đẹp, giúp môi trường trong lành hơn, cùng đó, ông đầu tư hệ thống cấp thoát nước vào tận ao nuôi, thực hiện thay nước thường xuyên, giúp môi trường nuôi sạch để cá tăng trưởng và phát triển tốt. Theo ông Hướng, yếu tố quan trọng mang lại thành công đó chính là con giống, kỹ thuật chăm sóc và yếu tố không thể thiếu là chất lượng thức ăn. Bởi, thức ăn chiếm một phần không nhỏ trong chi phí vụ nuôi, nếu người nuôi lựa chọn được thức ăn có chất lượng tốt sẽ giảm được chi phí, góp phần tăng lợi nhuận và hiệu quả sản xuất.
Hiện nay đã có thức ăn dành cho cá lóc nhằm cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho từng giai đoạn phát triển của cá. Ở giai đoạn cá nhỏ có thể sử dụng sàng ăn để tập cho cá ăn nhằm kiểm soát thức ăn. Chia thức ăn ra nhiều lần, giúp cá ăn nhanh và triệt để hơn.
Trên thị trường có nhiều sản phẩm thức ăn dành cho cá lóc, nhưng ông Hướng luôn tin dùng và đánh giá cao về chất lượng các dòng sản phẩm thức ăn cá lóc của Công ty TNHH Uni-President Việt Nam. Ông Hướng nhận định, thức ăn cá lóc của Công ty Uni-President Việt Nam ít bụi, độ tan chậm, giúp cá tăng trọng nhanh, thịt cá thơm ngon, săn chắc, ít hao hụt trong quá trình vận chuyển. Ngoài ra, khi bà con sử dụng thức ăn của Uni, còn được các kỹ thuật viên của Công ty tận tình hướng dẫn về kỹ thuật nuôi cũng như thường xuyên theo dõi để hỗ trợ và giải đáp thắc mắc của người nuôi.
Cá Hải Tượng – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Cá hải tượng có tên khoa học là Arapaima gigas, phân bố chủ yếu tại Nam Mỹ, lưu vực sông Amazon. Đây là một trong những loài cá nước ngọt lớn nhất thế giới, chiều dài có thể trên 3 m, trọng lượng 200 kg. Cá có thân dài, hình trụ và được bao phủ bởi lớp vảy to và dầy (có thể dài đến 6 cm). Miệng cá rộng, có 2 mảng xương, hàm trên có 32 răng, hàm dưới có 35 răng. Lưỡi xương, ít cử động, nhiều răng cưa nhỏ. Ống tiêu hóa của cá ngắn. Cá hải tượng thở bằng mang, nhưng bóng cá lại có chức năng hoạt động gần như phổi, giúp cá có khả năng thở trên không khí, vì vậy chúng có thể sống trong môi trường có hàm lượng ôxy hòa tan thấp. Cá có màu ghi sáng với những ánh xanh lơ. Các vảy phía thân dưới có ánh đỏ, càng về phần đuôi thì càng rõ rệt. Cá có vây đuôi tròn; vây lưng và vây bụng đối xứng nhau và nằm ở 1/3 phần thân sau. Cá thường sinh sản vào mùa mưa, trong điều kiện nuôi nhốt. Trứng cá có kích thước lớn từ 2,5 – 3 mm.
Ở Việt Nam, cá hải tượng được nuôi làm cảnh
Cá hải tượng phân bố chủ yếu ở Nam Mỹ như Colombia, Brazil, vùng đảo Guyan, khắp lưu vực sông Amazon và các phân nhánh của nó.
Cá hải tượng được phát triển nuôi thương phẩm tại một số nước như Peru, Brazil với nguồn giống dựa vào sinh sản tự nhiên trong quá trình nuôi nhốt. Trong điều kiện nuôi nhốt, cá có thể đẻ trứng 5 – 7 lần/năm. Thức ăn sử dụng để nuôi thương phẩm là thức ăn tươi hoặc thức ăn công nghiệp với hàm lượng đạm khoảng 40%. Sau 12 tháng, tính từ khi cá bắt đầu nở, cá đạt trọng lượng thương phẩm 10 – 15 kg/con.
Tại Việt Nam, hải tượng được nuôi làm cảnh, được bán với giá rất đắt tại thành phố Hồ Chí Minh, được các đại gia “chơi” cá cảnh ưa thích. Một cặp cá hải tượng giống, dài 20 cm có giá khoảng 3,5 triệu đồng. Chi phí mua thức ăn để nuôi loài cá này khá tốn kém, trung bình 1 con cá hải tượng dài 1,5 m; mỗi ngày ăn hết gần 5 kg cá.
Cá hải tượng là loài giới hạn mua bán quốc tế quy định tại phụ lục 2 Công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp (Công ước CITES II). Loài cá này mặc dù hiện chưa bị nguy cấp nhưng có thể dẫn đến tuyệt chủng nếu không khai thác hợp lý. Việc buôn bán những loài này giữa các quốc gia cần có Giấy phép Xuất khẩu do cơ quan quản lý CITES nước xuất khẩu cấp.
Cập nhật thông tin chi tiết về Kinh Bắc: Sống Khỏe Nhờ Giữ Trọn Chữ Tín – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!