Xu Hướng 3/2023 # Hiệu Quả Từ Nuôi Cá Sặc Rằn Thương Phẩm # Top 7 View | Psc.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Hiệu Quả Từ Nuôi Cá Sặc Rằn Thương Phẩm # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Hiệu Quả Từ Nuôi Cá Sặc Rằn Thương Phẩm được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Sau 7- 8 tháng thả nuôi, nông dân có thể đạt lợi nhuận từ 40- 60 triệu đồng/1.000m2 ao nuôi. Đó là hiệu quả kinh tế từ mô hình nuôi cá sặc rằn thương phẩm ở huyện đầu nguồn An Phú. Cá sặc rằn là loài dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao.

Một trong những địa phương nổi tiếng với con cá sặc rằn là xã Khánh An (An Phú). Đây còn là nơi nổi tiếng với đặc sản khô, mỗi năm cung ứng thị trường 300- 350 tấn khô các loại, chủ lực là khô sặc rằn. Trước đây, nguồn nguyên liệu làm khô sặc rằn chủ yếu phụ thuộc vào nguồn cung từ Campuchia và Thái Lan.

Gần đây, nguồn cá nguyên liệu ngày càng giảm thì mô hình nuôi cá sặc rằn thương phẩm tại địa phương là giải pháp cung ứng cho các cơ sở chế biến khô sặc rằn ở An Phú. Đầu năm 2011, Phòng Nông nghiệp- Phát triển nông thôn (NN-PTNT) huyện An Phú phối hợp Trung tâm Giống thủy sản An Giang (đơn vị chuyển giao kỹ thuật) đã triển khai dự án “Mô hình ứng dụng khoa học công nghệ phát triển nuôi cá sặc rằn”.

Sau 24 tháng thực hiện, mô hình được Sở Khoa học- Công nghệ nghiệm thu với kết quả cao. Triển khai dự án này, nông dân và kỹ thuật viên được học tập các mô hình nuôi cá sặc rằn hiệu quả và tập huấn ứng dụng thành thạo kỹ thuật sản xuất giống, nuôi thương phẩm cá sặc rằn.

Dự án còn xây dựng thành công 7 mô hình ương giống và xây dựng 9 mô hình nuôi cá sặc rằn thương phẩm. Thành công lớn của dự án là cải tiến được quy trình kỹ thuật trong khâu tuyển chọn con giống và sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm cao (30%), rút ngắn chu kỳ nuôi (từ 3 – 5 tháng so với trước) và tăng vòng vốn sản xuất.

Anh Cường, một trong những người tham gia mô hình nuôi cá sặc rằn đầu tiên ở xã Khánh An, cho biết: “Nhờ theo dõi sát các buổi tập huấn và được kỹ thuật viên thủy sản hướng dẫn tận tình nên tỷ lệ hao hụt rất ít, cá nuôi phát triển tốt”.

Vụ nuôi vừa rồi, anh Cường trúng lớn. Với diện tích 6.000m2, sau 7- 8 tháng nuôi, thu hoạch bình quân 2,2 tấn/1.000m2, trừ chi phí anh Cường còn lãi hơn 300 triệu đồng…

Chủ động được nguồn nguyên liệu sẽ giúp thương hiệu khô cá sặc rằn Khánh An (An Phú) vươn ra thị trường trong, ngoài nước.

Năm 2013, Sở NN-PTNT An Giang cũng đã triển khai dự án “Chuỗi giá trị sản xuất cá sặc rằn” với mô hình 2 héc-ta và 1 cơ sở chế biến khô công suất 200- 250 tấn thành phẩm/năm. Mục tiêu nhằm xây dựng vùng nuôi cá sặc rằn công nghệ cao và cung ứng nguyên liệu cho cơ sở chế biến khô cá sặc rằn xã Khánh An (An Phú).

Đây còn nhằm tổ chức mô hình chuỗi liên kết sản xuất từ sản xuất con giống, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm khô cá sặc rằn Khánh An. Đồng thời, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao vào cơ sở chế biến khô cá sặc rằn để nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, thực hiện công bố hợp quy…

Cá sặc rằn là đối tượng thủy sản dễ nuôi, nhu cầu thị trường lớn và ổn định, người nuôi có thể nuôi quảng canh hoặc thâm canh để tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên của địa phương, góp phần tăng thu nhập, chuyển đổi cơ cấu vật nuôi. Với hiệu quả cao và đầu ra ổn định, cá sặc rằn sẽ là mô hình có tiềm năng phát triển trong thời gian tới.

Cá sặc rằn (còn gọi là cá rô tía da rắn hay cá rô tía Xiêm) là loài phân bố nhiều ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), như: An Giang, Kiên Giang, Cà Mau… Đây là loài cá dễ nuôi, khả năng thích nghi rộng, có thể nuôi thâm canh hoặc nuôi quảng canh trong ao hầm, mương vườn, ruộng lúa. Thức ăn chủ yếu của cá sặc rằn là thực vật thủy sinh và mùn bã hữu cơ. Những năm gần đây, nghề nuôi cá sặc rằn được nhiều nông dân quan tâm đầu tư, mang lại hiệu quả cao.

Theo AGO

Hiệu Quả Kinh Tế Từ Nuôi Cá Rô Đầu Vuông Thương Phẩm

Trung tâm Khuyến nông (Sở NN-PTNT) vừa tổng kết mô hình Nuôi cá rô đầu vuông thương phẩm tại các huyện Phú Hòa, Đông Hòa. Mô hình này giúp người dân khai thác hiệu quả diện tích mặt nước ngọt tại địa phương, mang lại hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập.

Thích nghi cao

Phú Yên có diện tích mặt nước ao, hồ thủy lợi, thủy điện, sông… tương đối lớn, rất thuận lợi để phát triển nghề nuôi thủy sản nước ngọt. Tuy nhiên, trong thời gian qua, người dân các địa phương chưa khai thác hết lợi thế và tiềm năng mặt nước ngọt. Trước thực trạng này, Trung tâm Khuyến nông đã triển khai mô hình Nuôi cá rô đầu vuông thương phẩm tại các huyện Đông Hòa, Phú Hòa.

Theo Trung tâm Khuyến nông, mô hình Nuôi cá rô đầu vuông thương phẩm được triển khai từ tháng 12/2015-8/2016 tại 4 hộ dân ở huyện Phú Hòa và Đông Hòa với diện tích 0,95ha mặt nước. Khi tham gia mô hình, các hộ nuôi được hỗ trợ 100% chi phí con giống, 30% chi phí thức ăn và được hướng dẫn kỹ thuật, quy trình nuôi từ lúc thả giống đến khi thu hoạch. Cá rô đầu vuông có kích cỡ 220 con/kg, mật độ thả 15 con/m2 mặt nước. Cá giống đảm bảo đồng cỡ, không bị dị hình, bơi lội nhanh nhẹn, màu sáng và đã được kiểm dịch.

Ông Ngô Phi Tâm ở xã Hòa Thành (huyện Đông Hòa), cho biết: Ao nuôi của gia đình tôi rộng 9 sào (4.500m2), lâu nay thường nuôi cá rô phi vì loại cá này dễ sống, sinh trưởng nhanh. Tuy nhiên giá bán lại khá bấp bênh, dao động từ 10.000-15.000 đồng/kg, hiệu quả kinh tế không cao. Từ khi được Trung tâm Khuyến nông giới thiệu mô hình Nuôi cá rô đầu vuông thương phẩm, tôi liền hưởng ứng. Tham gia mô hình này, gia đình được trung tâm hỗ trợ 67.000 con cá giống, khoảng 1,5 tấn thức ăn công nghiệp và hướng dẫn kỹ thuật nuôi. Theo ông Tâm, đây là giống cá mới, tại địa phương chưa có hộ nào nuôi vì thế cũng chưa có kinh nghiệm. Nhờ được cán bộ kỹ thuật hướng dẫn tận tình nên ông đã dần biết cách chăm sóc. Cá rô đầu vuông là loài ăn tạp, thức ăn nuôi cá có thể dùng thức ăn công nghiệp hoặc tận dụng các loại phế phẩm trong chế biến thủy sản hay cám gạo… So với giống cá rô đồng bản địa thì loại cá rô này có hình thể lớn hơn, lúc còn nhỏ thì khá giống, nhưng sau 3 tháng nuôi cá bắt đầu lớn rất nhanh, đầu to và hơi vuông. Định kỳ khoảng 10 ngày, ông Tâm thay nước ao nuôi một lần, mỗi lần thay khoảng 30% lượng nước trong ao, nhờ vậy cá ăn rất mạnh và mau lớn.

Còn ông Trần Nguyên Lãm ở thị trấn Phú Hòa (huyện Phú Hòa), cho hay: Tuy đây là lần đầu tôi nuôi giống cá rô đầu vuông nhưng nhờ loại cá này dễ sống, thích nghi cao với điều kiện tự nhiên tại địa phương nên tỉ lệ hao hụt thấp, chỉ khoảng 15%. Trong khi đó, tốc độ sinh trưởng của cá rất nhanh, nếu thâm canh đúng kỹ thuật thì sau 6 tháng nuôi, cá có kích cỡ từ 10-11 con/kg, đạt trọng lượng thu hoạch. Vừa qua, gia đình tôi đã thu được 2,8 tấn cá, bán với giá 35.000 đồng/kg, thu được 98 triệu đồng.

Tiếp tục nhân rộng

Theo Trung tâm Khuyến nông, qua tổng kết, mô hình Nuôi cá rô đầu vuông thương phẩm cho kết quả khả quan, tổng sản lượng cá thu hoạch gần 11 tấn, cá đạt kích cỡ khoảng 10 con/kg, giá bán 35.000 đồng/kg. Sau khi trừ các loại chi phí, mô hình cho lợi nhuận hơn 146 triệu đồng/0,95ha, tương đương với lợi nhuận khoảng 154 triệu đồng/ha mặt nước. Nếu người dân mở rộng quy mô nuôi thì hiệu quả kinh tế sẽ khá cao.

Ông Nguyễn Quang Luận ở thị trấn Phú Hòa (huyện Phú Hòa), một trong những hộ tham gia mô hình, cho biết: Sau 6 tháng nuôi, gia đình tôi đã thu hoạch được hơn 1,6 tấn cá rô đầu vuông thương phẩm, cho lãi gần 20 triệu đồng. So với các loại cá trê, tràu thì nuôi cá rô đầu vuông hiệu quả hơn vì tỉ lệ sống cao, ít bệnh, lớn nhanh. Tôi đang tính mở rộng diện tích nuôi lên 5 sào cho vụ sau, đồng thời chuyển từ nuôi thức ăn công nghiệp ròng sang cho cá ăn xen kẽ với các loại phụ phẩm nông nghiệp để giảm giá thành, tăng lợi nhuận.

Còn hộ bà Lê Thị Tuyền ở xã Hòa Thành (huyện Đông Hòa), trước nay chỉ nuôi cá trê, loại cá này ăn tạp nhưng lại hay bị bệnh nên tỉ lệ hao hụt và chi phí khá tốn kém. Vừa qua, được tham quan mô hình Nuôi cá rô đầu vuông thương phẩm do Trung tâm Khuyến nông triển khai, bà rất thích. “Gia đình tôi đang tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm để nuôi thêm giống cá mới này. So với cá trê thì cá rô đầu vuông có giá bán tương đương nhưng loại cá này ít bệnh, tỉ lệ hao hụt thấp nên hiệu quả kinh tế sẽ vượt trội hơn”, bà Tuyền nói. Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Đông Hòa Đỗ Kim Đồng cho hay: Từ hiệu quả của mô hình Nuôi cá rô đầu vuông thương phẩm, vừa qua địa phương đã nhân rộng mô hình này cho 5 hộ dân khác trên địa bàn, đến nay, cá nuôi trong mô hình phát triển rất tốt.

Theo Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nguyễn Khắc Tân, qua mô hình cho thấy cá rô đầu vuông có nhiều đặc điểm vượt trội, có giá trị kinh tế, đây sẽ loài nuôi mới góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi nước ngọt. Hiện nay, giống cá rô đầu vuông được các cơ sở trong tỉnh sản xuất và cung ứng tại chỗ nên người nuôi có thể chủ động được nguồn giống.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Chép Thương Phẩm Hiệu Quả

1. Đặc tính của cá chép

Trước khi chúng ta tìm hiểu về kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm như nào cho có hiệu quả thì trước tiên chúng ta sẽ phải tìm hiểu về các đặc tính vốn có của loài cá này.

Cá chép có tên khoa học là Cyprinus carpio, là một loài cá nước ngọt, có quan hệ họ hàng xa với cá vàng thông thường và chúng có khả năng lai giống với nhau.

Cá chép có độ dài tối đa khoảng 1,2 mét và cân nặng tối đa khoảng 37,3 kg, tuổi thọ đạt khoảng 47 năm..

Mặc dù cá chép có thể sống được trong nhiều điều kiện khác nhau, nhưng nói chung nó thích môi trường nước rộng với dòng nước chảy chậm cũng như có nhiều trầm tích thực vật mềm (rong, rêu). Cá chép là một loại cá sống thành bầy đàn, chúng ưa thích tạo nhóm khoảng từ 5 cá thể trở lên. Trên lưng chúng có nhiều vảy, và là những loại cá tạp ăn và chúng ăn gần như có thể ăn mọi thứ khi chúng bơi ngang qua, bao gồm các loại thực vật thủy sinh, côn trùng, sinh vật phù du hoặc cá chết.

Cá chép là loại cá có giá trị kinh tế cao vì vậy nếu bạn áp dụng kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm hiệu quả sẽ cho năng suất cực kỳ cao.

2. Kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm

bao gồm nhiều công đoạn trong đó bà con phải chú ý ngay từ bước chuẩn bị ao nuôi, thả cá giống, quản lý chăm sóc ao và cuối cùng là thu hoạch. Giờ đây, câu hỏi ” Kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm Làm sao nuôi cá chép mau lớn ” được đơn giản hóa chỉ bằng vài bước chuẩn bị.

B1 : Chuẩn bị ao nuôi

Một điều rất quan trọng không chỉ là kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm mà cho bất kỳ loại cá nào mà bạn muốn nuôi đó là bước chuẩn bị ao.

Giống như các ao nuôi cá khác, điều kiện cho ao để nuôi cá chép thương phẩm là: đất không bị chua hay mặn, phải gần nguồn nước sạch, không có các mạch nước ngầm độc hại gây nguy hiểm cho cá. Nên đào ao theo hình chữ nhật ( trong đó chiều dài gấp rưỡi hoặc gấp 2 lần chiều rộng), nên để ao gần chuồng trại chăn nuôi, hoặc gần gia đình để tiện quản lý và chăm sóc, gần đường giao thông để thuận tiện trong quá trình vận chuyển cá giống và bán cá khi thu hoạch.

Trong kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm thì môi trường ao nuôi cá phải luôn thoáng sạch, không được để bị ô nhiễm, nhiệt độ của nước phải dao động khoảng 20-30 độ C, nước ao phải luôn có màu xanh nõn chuối (độ trong từ 10 đến 20 cm), độ PH đạt từ 6,5 đến 8,5, oxy đạt từ 3-8 mg/l, cò từ 3-10mg/l, và nước ao không được có H2S, hàm lượng NH4 phải nhỏ hơn 1mg/l, hàm lượng sắt tổng cộng không vượt quá 0,2 mg/l.

Trước khi nuôi cá, cần phải chuẩn bị theo các bước sau:

Sửa sang bờ ao, kiểm tra đăng cống, phát quang bờ, bụi rậm quanh ao.

Tháo cạn ao, nạo vét đáy bùn đề tiêu diệt các mần mống có thể gây bệnh sau này cho cá.

Bón vôi khắp đáy ao, để diệt khuẩn, nếu trong ao nuôi đã từng làm cho cá tôm bị bệnh hoặc ao bị chua thì lượng vôi tẩy ao tăng 2 lần ( khoảng từ 15-20kg/100m2).

Phơi ao từ 3- 5 ngày, bón lót bằng cách rải đều khắp ao 30 đến 40kg phân chuồng đã ủ kỹ và 40 đến 50kg lá xanh (dùng lá thân mềm để làm phân xanh) cho 100m2.

B2: Tiến hành chọn giống

Trong kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm thì có một điều bạn không được bỏ qua đó là việc tiến hành chọn giống nuôi.

Nên chọn loại giống tốt đề đảm bảo về chất lượng cá sau này, để có thể chọn được giống cá chép tốt thì bạn hãy lầy khoảng 10- 15 con cho vào ao sau đó theo dõi cá trong khoảng 20-30 phút thấy cá hoạt động bình thường là được, nếu như cá có hiện tượng chậm chạp hoặc chết thì phải ngưng việc thả cá mà kiểm tra lại nguồn nước một lần nữa.

Nên tắm cho cá giống đề phòng bệnh: trước khi thả vào ao thì nên cho cá tắm qua nước muối ăn (nacl) nồng độ 3%.

Khi thả cá vào ao thì nên thả từ từ để tránh việc cá bị “xốc” do chênh lệch nhiệt độ giữa nước ao và nước chứa cá:

Chú ý nên thả cá ở đầu gió cho cá phân tán nhanh ra ao.

B3: Biện pháp quản lý ao nuôi:

Để thực hiện tốt kỹ thuật nuôi cá chép thương phẩm cho năng suất cao thì bà con phải bảo đảm hàng ngày phải thăm ao ít nhất 2 lần vào sáng sớm và chiều tối, để kịp thời phát hiện các hiện tượng có ảnh hưởng đến ao cá bao gồm như: hiện tượng cá bị nổi đầu, nước ao bị bạc màu, đăng cống hư hỏng, hay cá bị đánh trộm v.v… Ngoài ra trong quá trình nuôi bạn sẽ gặp rất nhiều vấn đề nên phải luôn chú ý quan sát để có cách khắc phục như:

Nếu như trên sàn ăn còn thừa thức ăn là cá đã no, phải giảm bớt khẩu phần ăn của cá.

Nếu như trên sàn ăn hết thức ăn cho cá chép, nước trong ao đục ngầu, là cá đang đói phải tăng thêm thức ăn.

Nước ao giàu dinh dưỡng thì có màu xanh lá chuối non.

Cá nổi đầu bình thường: vào buổi sáng cá nổi thành từng đám, bơi lội thoải mái, phản ứng nhanh với tiếng động, cá lặn hết khi mặt trời mọc.

Nếu cá nổi đầu do ao thiếu oxy hoặc bị bệnh: thì cá bơi lội dáng vẻ mệt mỏi, bơi không theo đàn, xuất hiện ven bờ ao có tôm tép chết dạt… Lúc này cá cần phải được cấp cứu: bạn phải ngừng hẳn bón phân, ngừng cho cá ăn, và bơm ngay nước mới vào ao,

Áp dụng kỹ thuật nuôi cá chép và giữ mức nước ao từ 1,5-2m để có thể chống nóng và chống rét cho cá.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Sặc Rằn

I. XÂY DỰNG AO NUÔI

– Cá Sặc Rằn không kén ao nuôi, nuôi trong ao, mương vườn, ruộng lúa…cá đều phát triển tốt. Diện tích lớn nhỏ đều nuôi được. Nên thiết kế ao có diện tích hình chữ nhật để dễ thao tác chăm sóc và thu hoạch.

– Cá sặc rằn sống được ở nước ngọt và nước lợ với nồng độ muối 8%o, trong ao nuôi cá sặc rằn không nên để nước quá đục, không nên sử dụng nguồn nước có pH < 6, có thể tận dụng nước trong ruộng lúa cấp vào ao nuôi.

– Khi nuôi với mật độ cao cần thiết kế ống bọng xả và cấp nước, đường kính tùy theo diện tích ao, thông thường đường kính ống bọng 30cm -40 cm là thích hợp.

– Bờ ao phải cao hơn mực nước cao nhất trong năm từ 0,5m trở lên. Độ sâu của nước ao trên 1 m.

II. CHUẨN BỊ AO NUÔI

– Tháo cạn nước, tu sửa lại bờ ao, dọn cỏ xung quanh, chống rò rỉ, chống mất nước, kiểm tra ống bọng cấp thoát nước, diệt hết cá tạp, mầm bệnh trong ao.

– Sên vét bùn đáy ao, chỉ để lại 10 – 20cm bùn đáy.

– Dùng vôi bón xung quanh bờ ao và đáy ao, liều lượng từ 10 – 15 kg/100m 2, sau đó phơi ao đến nứt chân chim.

– Bón phân: Nên dùng phân hữu cơ bón lót cho ao, với lượng từ 15 -20kg/100m2, để tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Đối với ao mới thì cần tăng lượng phân xanh (lá so đũa, cây họ đậu) liều lượng từ 25 – 30 kg/100m 2.

– Sử dụng phân vô cơ NPK (20:20:0) với lượng 0,8 – 1 kg/100m2 bón thay trong trường hợp không có hoặc có ít phân hữu cơ.

– Sau khi bón phân, phơi ao 2 – 3 ngày và cho nước vào ao đạt độ sâu từ 1,2 – 1,5m (nước cấp phải qua túi lọc bằng vải kate để ngăn cá tạp, địch hại xâm nhập vào ao). Khoảng 4 – 5 ngày nước có màu xanh đọt chuối non thì bắt đầu thả cá giống.

– Trường hợp tận dụng mương vườn để nuôi thì cần diệt trừ dịch hại trước khi thả cá.

III. THẢ GIỐNG

– Mùa vụ thả: Cá sặc rằn được nuôi quanh năm, nhưng tốt nhất nên thả vào đầu muà mưa (khoảng tháng 5 AL hằng năm).

– Vận chuyển cá giống: Trong quá trình vận chuyển, cần đóng bao với mật độ thưa tránh trường hợp cá bị xây xát, mất nhớt. Nên vận chuyển cá vào lúc trời mát, thời gian vận chuyển dưới 10giờ.

– Chọn cá giống có kích thước đồng đều, khỏe mạnh không xây xát, màu sắc tươi sáng đặc trưng của loài, không có dấu hiệu bệnh, không dị tật, dị hình.

– Không nên chọn cá giống quá nhỏ, cá có kích cỡ từ 4 – 5 cm trở lên là thích hợp, tiện cho việc chăm sóc và quản lý.

– Cá được thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.

– Để hạn chế tình trạng sốc môi trường và nhiệt độ, bao cá giống cần được thả xuống ao nuôi từ 10 – 20 phút rồi mới thả cá từ từ ra ngoài, đồng thời phải quan sát biểu hiện ban đầu của cá để có hướng khắc phục kịp thời.

– Mật độ thả từ 8 – 10con/m 2. Nếu nuôi cá ở ruộng, không bổ sung thêm thức ăn thì thả với mật độ từ 3 – 5 con/m2.

IV. QUẢN LÝ THỨC ĂN

– Nguồn thức ăn bổ sung: Tùy vào điều kiện thực tế của từng nông hộ mà nguồn thức ăn bổ sung có thể là:

– Cho ăn 100% thức ăn viên dành cho cá có vảy, có hàm lượng đạm 20 – 30% (thức ăn công nghiệp) trong khẩu phần ăn.

– Thức ăn tự chế biến bao gồm: Cám gạo 65% + Cá tạp 25% + Chất kết dính 10%.

– Phương pháp cho ăn: Hằng ngày cho cá ăn từ 1 – 2 lần vào lúc 7 – 8 giờ và 16 – 17 giờ. Nếu thức ăn tươi nên cho ăn qua sàng ăn để tiện việc kiểm soát thức ăn. Lượng thức ăn cho ăn hằng ngày thay đổi theo tháng nuôi: Hai tháng đầu là 10% tổng trọng lượng đàn cá, tháng thứ 3 – 4 cho ăn 7%, tháng 5 – 6 cho ăn 5% và những tháng sau cho ăn 3%. Để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp, cần lưu ý một số yếu tố như:

– Theo dõi sức ăn của cá, nếu sau 30 phút cá ăn hết là đạt yêu cầu.

– Khi nước ao bị sậm màu (tảo nhiều, đáy ao bị đen) nên giảm lượng cho ăn.

V. QUẢN LÝ AO NUÔI

Sau khi thả cá, việc quản lý môi trường ao nuôi là việc làm rất cần thiết và cần thực hiện thường xuyên trong quá trình nuôi.

– Thay nước: khi chất lượng nước xấu đi, chỉ nên thay nước khoảng 20 – 30 % để tránh tình trạng cá bị sốc. Việc thay nước sẽ làm tăng thêm oxy, giảm các chất độc trong hệ thống nuôi, kích thích cá hoạt động và bắt mồi, đặt biệt là kích thích sự tăng trưởng của cá.

* Lưu ý: khi thay nước phải xác định được nguồn nước cấp có đảm bảo yêu cầu về chất lượng hay không để tránh tình trạng làm xấu đi hoặc ô nhiễm chất lượng nước trong ao nuôi. Có thể thay nước theo chu kỳ 15 – 20 ngày/1 lần (đối với những tháng nuôi cuối).

– Phải thường xuyên theo dõi màu nước để điều chỉnh lượng thức ăn, phân bón, quan sát ao cá, tránh bị mọi, tràn bờ, địch hại (ếch, nhái, rắn,…) để diệt trừ; đồng thời quan sát hoạt động của cá (ăn mạnh hay yếu, có dấu hiệu bệnh hay không,…) để xử lý kịp thời.

– Bón vôi trên bờ ao vào những ngày mưa nhiều để giảm phèn.

– Định kỳ 15 – 20 ngày/lần sử dụng chế phẩm sinh học trong suốt quá trình nuôi.

– Phát hiện cá bị bệnh phải báo ngay cho cán bộ kỹ thuật để có hướng xử lý kịp thời.

VI. THU HOẠCH

– Sau 8 – 10 tháng cá đạt trọng lượng 100 – 150gr/con thì có thể tiến hành thu hoạch.

– Trường hợp kích cỡ cá trong ao không đồng đều thì dùng lưới thu tỉa, hoặc thu hết và thả nuôi lại cá nhỏ qua ao mới.

VII. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CÁ

1. Phòng bệnh

Thực hiện đúng quy trình kỹ thuật nuôi như:

– Xây dựng và cải tạo ao đúng theo quy trình kỹ thuật;

– Chọn cá giống phải khỏe mạnh, mật độ nuôi phải phù hợp;

– Nguồn nước cấp cho ao nuôi phải sạch không bị nhiễm bẩn;

– Trong quá trình đánh bắt, sang ao tránh làm xây xát;

– Cho cá ăn phải đầy đủ chất dinh dưỡng để cá có sức kháng bệnh;

– Trước khi thả cá nên tắm cá giống bằng thuốc tím hoặc nước muối 3-5‰ trong thời gian 5-10 phút để diệt hết các mầm bệnh.

2. Một số bệnh thường gặp trên cá sặc rằn

2.1. Bệnh trùng quả dưa

– Dấu hiệu bệnh lý: Trong giai đoạn đầu của bệnh sẽ xuất hiện những đốm màu trắng bằng đầu kim hoặc nhỏ hơn trên thân cá. Sau xuất hiện các đốm trắng trên da cá và vây cá bị tua ra. Cá bơi lội chậm chạp và tỷ lệ chết cao.

– Cách phòng trị: Dùng 20 – 25ml lít Formol/m 3 nước ao, trị 3 lần cách nhau 3 ngày 1 lần.

2.2. Bệnh trùng bánh xe

– Dấu hiệu bệnh lý: Khi cá nhiễm bệnh, trên thân cá có màu trắng đục, da cá sậm lại, mang cá nhợt nhạt, cá giảm ăn và nổi đầu từng đàn trên mặt nước.

– Cách phòng trị: Đây là bệnh ngoại ký sinh, có thể điều trị như sau:

+ Dùng Sulfat đồng (phèn xanh) phun khắp ao với liều lượng 0,3 – 0,5 gr/m 3 nước ao trị 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 1 ngày.

+ Dùng Formol với liều lượng 20 – 25m/m 3 nước. Trị 3 ngày liên tục.Nên trị bệnh cá lúc mát trời và trong thời gian trị bệnh nên giảm lượng thức ăn đi một nửa.

2.3. Bệnh nấm thủy my (nấm bông gòn)

Khi xuất hiện bệnh, thân cá có những vùng trắng xám, trên đó có những sợi nấm nhỏ mềm, tua tủa. Sau vài ngày sợi nấm phát triển đang chéo váo nhau thành búi trắng như bông, nhìn thấy được bằng mắt thường (để cá bệnh vào nước trong dễ quan sát hơn).

Có thể trị bằng một số phương pháp sau:

– Tắm cá với nước muối 8‰ trong 30 phút, lặp lại sau 3 giờ tiếp theo.

– Dùng thuốc tím (KMnO 4) tạt xuống ao liều 3-5 g/m3 nước

2.4 Bệnh trùng mỏ neo

Giống như cái que đầu có sừng cứng giống như mỏ neo cắm sâu vào cơ thể, thường bám trên các gốc vây ngực, vây hậu môn.

– Dùng Formaline 20 – 25 ml/ m 3 nước tắm cá trong 30 phút, lặp lại vào ngày tiếp theo và thay 70% nước mới cho cá.

– Dùng lá xoan, dây giác 0,3 – 0,5kg/m 3 nước, bó thành từng bó ngâm xuống ao.

Cập nhật thông tin chi tiết về Hiệu Quả Từ Nuôi Cá Sặc Rằn Thương Phẩm trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!