Xu Hướng 10/2023 # Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn Thương Phẩm Tại Huyện Đạ Huoai # Top 11 Xem Nhiều | Psc.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn Thương Phẩm Tại Huyện Đạ Huoai # Top 11 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn Thương Phẩm Tại Huyện Đạ Huoai được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cá chạch bùn (tên khoa học: Misgurnus anguillicaudatus) có thịt thơm ngon, xương mềm nên thị trường nội địa tiêu thụ rất mạnh. Cá chạch bùn còn được gọi là cá chạch sụn vì khi cá đạt trọng lượng 30-40 con/kg thì toàn bộ xương cá (kể cả xương đầu và xương sống) được chuyển hóa thành sụn nên được nhiều người ưa chuộng, có thể sử dụng làm thực phẩm cho cả người già và trẻ nhỏ.

Cá chạch bùn có nguồn gốc từ Đài Loan được đưa về Việt Nam nhân giống, những năm qua được nuôi chủ yếu ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Nhiều bà con nông dân đang đầu tư sản xuất con giống và nuôi cá thịt thương phẩm hướng tới xuất khẩu.

Nhằm nghiên cứu, đưa loài thủy sản mới vào nuôi thử nghiệm trên địa bàn huyện Đạ Huoai. Qua đó, đánh giá tính thích nghi, hiệu quả kinh tế để khuyến cáo nông dân nuôi trồng, phát triển kinh tế. Năm 2014, Trung tâm Nông nghiệp huyện Đạ Huoai triển khai mô hình thử nghiệm nuôi cá chạch bùn thương phẩm tại huyện Đạ Huoai từ nguồn vốn Khoa học – Công nghệ của huyện. Mô hình được triển khai tại 2 hộ của thị trấn Mađaguôi, huyện Đạ Huoai (hộ ông Vũ Đức Biệc, tổ dân phố 2 và hộ ông Trần Minh Ngọc, tổ dân phố 10) với quy mô 200 m2/hộ. Số lượng con giống thả nuôi 9.000 con/điểm/200m2. Kích cỡ con giống thả nuôi khoảng 2 g/con. Sử dụng thức ăn công nghiệp của cá chạch bùn có hàm lượng đạm từ 30-35%.

Sau 3,5 tháng nuôi (từ tháng 8-11/2014), cá đạt trọng lượng trung bình 35 gram/con (28-30 con/kg) tương ứng tốc độ tăng trọng 9,14 gram/con/tháng. Tỷ lệ nuôi sống đạt 89% (lượng cá giống thất thoát không phải do bị bệnh mà chủ yếu là do vận chuyển đường xa cá bị chết và bị chim, cò ăn trong quá trình nuôi). Sản lượng cá thu hoạch đạt 280 kg/200m2, giá bán sỉ 145.000 đồng/kg, doanh thu 40,6 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí 24,93 triệu đồng gồm mua giống, thức ăn công nghiệp, thuốc thú y thủy sản…, nông dân thu lãi 15,67 triệu đồng/200m2/3,5 tháng nuôi (chưa trừ chi phí công lao động).

Qua quá trình theo dõi, cá chạch bùn có nhiều ưu điểm như: Tăng trọng nhanh, chu kỳ nuôi ngắn (3-4 tháng/lứa), sức đề kháng cao, không xuất hiện bệnh tật, thịt cá thơm, ngon, bổ dưỡng, giá bán cao, thị trường tiêu thụ thuận lợi (tư thương đặt hàng mua số lượng lớn)… nên hiệu quả kinh tế cao. Ngày 22/11/2014, Trung tâm Nông nghiệp huyện Đạ Huoai tổ chức mời nông dân tham dự hội thảo, trực tiếp nghe nông hộ thực hiện mô hình báo cáo hiệu quả kinh tế của việc nuôi cá chạch bùn. Đến nay, ngoài 2 hộ thực hiện mô hình tiếp tục nuôi chu kỳ mới thì đã có thêm 2 hộ chủ động đầu tư, nhân rộng mô hình. Hiện nay cá đang sinh trưởng, phát triển rất tốt, tỷ lệ sống cao, tăng trọng nhanh.

Nhằm giúp nhiều hộ dân nắm bắt kỹ thuật, nhân rộng mô hình nuôi cá chạch bùn thương phẩm để phát triển kinh tế, Trung tâm Nông nghiệp Đạ Huoai giới thiệu kỹ thuật nuôi cá chạch bùn thương phẩm như sau:

1. Chuẩn bị ao nuôi

Vị trí ao nuôi tốt nhất là gần nguồn cung cấp nước. Nước có thể ra vào thường xuyên, điều kiện thay nước dễ dàng. Chất lượng nước đảm bảo không bị ô nhiễm. Nên chọn ao ở những nơi đất có thành phần cơ giới nặng như đất sét, thịt pha sét.

Vị trí ao ở nơi thoáng mát, nhiều ánh nắng. Bờ ao và mái bờ ao phải chắc chắn không bị sạt lở, không có khe nứt, hang hốc.

Mực nước trung bình từ 60-70 cm, trong ao có thể thả bèo tây để tạo chỗ trú ẩn cho cá tránh nóng, tránh rét và làm sạch môi trường nước.

1.1 Kỹ thuật xử lý, cải tạo ao nuôi

- Đối với những ao đã nuôi: Có hai phương pháp cải tạo ao, đó là cải tạo khô hoặc cải tạo ướt, cũng có thể kết hợp giữa cải tạo khô và cải tạo ướt, tuỳ thuộc vào chất đất, độ pH của đất, điều kiện vùng nuôi để có phương pháp cải tạo ao thích hợp đảm bảo nền đáy ao sạch, chất lượng nước tốt và ổn định.

* Cải tạo ướt: Đối với ao bị nhiễm phèn hoặc không thể phơi đáy. Hút bùn đen ra ngoài ao. Lấy nước vào đầy ao rồi xả, xả 3-4 lần. Lấy nước vào khoảng 30cm rồi đánh CaO (vôi tôi) 15-20 kg/100m2. Ngâm 2-3 ngày sau đó xả bỏ. Lấy nước vào, xả bỏ lại một lần nữa, nên cải thiện đáy ao với men vi sinh xử lý đáy.

Bón vôi CaCO3 (vôi bột), liều lượng vôi dùng để cải tạo cho 1.000 m2 ao.

pH

CaCO3 (Vôi bột)

(Kg)

Ca(OH)2

(Vôi nông nghiệp)

4 – 5

160 – 180

100 – 120

5 – 6

120 – 140

80 – 100

80 – 100

40 – 60

Sau đó, lấy nước vào ao.

* Cải tạo khô: Đối với ao ít hoặc không nhiễm phèn, thì thực hiện:

Tát cạn ao: Có thể tháo, bơm, hoặc tát để ao hết nước.

Dọn ao: Sửa sang bờ, dọn cỏ quanh bờ, chống rò rỉ, dọn sạch và san đáy, vét bùn, sửa sang cống tháo nước vào, ra. Trong điều kiện cho phép có thể cày xới và phơi lớp bùn đáy ao trong 5-10 ngày tạo điều kiện cho oxy thâm nhập vào đáy ao góp phần làm tăng độ màu mỡ của ao. Lớp bùn trong ao nuôi cá nên để từ 20-25cm là tốt nhất.

Diệt tạp: Tức là diệt các loại sinh vật gây hại cá còn sót lại dưới đáy ao hoặc xung quanh bờ, chủ yếu là các loài cá ăn thịt như lươn, cá rô, cá trê, cá lóc, các loại ấu trùng, côn trùng, cóc, ếch nhái. Dọn ao và diệt tạp thường tiến hành đồng thời và làm trước khi thả cá ra ao từ 10-12 ngày. Nếu làm sớm quá sinh vật hại cá sẽ có điều kiện phát triển trở lại. Nếu làm muộn thì một số chất diệt tạp chưa phân hủy hết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cá bột. Sử dụng vôi để diệt tạp. Khi vôi tan vào trong nước làm tăng độ pH của nước lên cao (pH = 11) làm cho các loài cá tạp, tôm và các sinh vật có hại khác bị tiêu diệt.

Bón lót: Là biện pháp cần thiết trong khâu chuẩn bị ao ương nhất là với những ao nghèo chất dinh dưỡng. Mục đích của việc bón lót là cung cấp cho ao một lượng phân hữu cơ là nguồn dinh dưỡng tức thời cho các sinh vật làm thức ăn cho cá ngay khi thả xuống ao. Mặt khác do phần lớn lượng phân bón lót phân hủy chậm nên nó sẽ tiếp tục bổ sung dinh dưỡng giúp cho quá trình phát triển sinh vật phù du trong ao được lâu bền trong suốt thời kỳ nuôi cá. Tùy điều kiện từng địa phương, gia đình có thể sử dụng phân lợn, gà đã ủ để bón lót tránh dùng phân có nhiều rác khó phân hủy. Lượng phân bón 20-50 kg/100m2.

Gây màu nước: Sau khi vét bùn đáy, bón vôi khử trùng, bón lót xong ta tiến hành lấy nước vào ao để đạt độ sâu 70 cm rồi tiến hành gây màu nước. Lưu ý khi lấy nước phải dùng lưới lọc ở chỗ lấy nước vào để ngăn các loài địch hại.

Gây màu nước thực chất là tạo môi trường thuận lợi cho tảo phát triển, tảo quang hợp mạnh sẽ cung cấp nhiều oxy cho ao nuôi. Chúng ta nên sử dụng các loại phân vô cơ NPK, phân vi sinh, men vi sinh hoặc chế phẩm sinh học bón xuống ao. Khoảng 7-10 ngày sau khi sử dụng phân bón, tảo trong ao phát triển, màu nước của ao có màu xanh nhạt thì chúng ta tiến hành thả giống. Với cách chuẩn bị như thế, hầu hết các ao nuôi sau khi thả giống một tháng không phải thay nước, chỉ cần giữ mực nước ở ao nuôi với độ sâu tối thiểu từ 1-1,2m.

Cách gây màu nước

+ Nếu dùng phân đã ủ để gây màu thì hòa phân với nước rồi rắc đều khắp ao. Lượng phân dùng khoảng 50-60 kg/100m2.

+ Nếu dùng phân xanh thì phải ngâm xuống ao sớm hơn bón phân chuồng 3-4 ngày. Bó phân xanh thành từng bó khoảng 5-10 kg. Cứ 100m2 rải 3-4 bó đều quanh ao. Cứ như vậy khoảng 7-10 ngày phân xanh phân hủy hết thì vớt đi phần cành cây không phân hủy, rồi lấy tiếp nước cho đạt yêu cầu.

– Đối với những ao mới đào: Nếu ao mới đào chưa nuôi cá, cho nước vào ngâm 2-3 ngày rồi xả hết nước ngâm và tháo rửa như vậy ít nhất 2-3 lần để rửa ao. Sau đó tiến hành các bước cải tạo ao như với ao đã nuôi ở trên.

2. Chọn giống nuôi và thả giống: Giống được mua tại những cơ sở chuyên sản xuất giống nhân tạo cá chạch bùn. Khi mua cần chú ý chọn mua ở những địa chỉ tin cậy, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu như cá khỏe mạnh, cỡ đồng đều 500 con/kg, sáng bóng, không mất nhớt, bơi lội hoạt bát, không bị trầy xước.

3. Mật độ thả nuôi: 45 con/m2 hoặc thả 10-15 kg chạch giống/100m2 ao. Cá nên được thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Nếu cá được vận chuyển bằng túi nilong bơm oxi, trước khi thả phải ngâm túi chứa cá vào ao thả từ 15-20 phút để tránh sốc do nhiệt độ và môi trường nước ao thay đổi.

4. Cho ăn và chăm sóc

- Thức ăn: Có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau như: khô đậu, cám gạo, nhộng tằm, thức ăn chế biến, thức ăn công nghiệp, cá tạp, ốc xay. Khuyến cáo nên dùng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi dùng cho cá chạch có hàm lượng đạm từ 30-35%.

- Lượng thức ăn: 5-8% trọng lượng thân. Hệ số tiêu tốn thức ăn 1,7kg thức ăn sẽ cho ra 1 kg cá chạch thương phẩm có trọng lượng 25-30 con/kg (trung bình 30-40 g/con).

- Thời gian cho ăn: Cho ăn 1-2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối. Tuy nhiên cá có tập tính ăn chủ yếu vào ban đêm, nên lượng thức ăn cho ăn vào chiều tối là chủ yếu.

5. Thu hoạch

Khi cá chạch đạt giá trị thương phẩm, trước khi xuất bán không cho ăn trước 1 ngày, không dùng kháng sinh trước khi xuất bán 15 ngày. Đánh bắt cẩn thận không để xây xát, cho vào thùng xốp, không cho nước, hoặc cho ít nước để không bị khô da.

6. Phòng bệnh và trị bệnh

Phòng bệnh: Cá chạch ít bị bệnh, tuy nhiên nếu để nước ô nhiễm nhiều ngày thì cũng dễ bị bệnh. Cá chạch có thể bị nấm, đốm đỏ lở loét, bệnh đường ruột… Để phòng bệnh nên trộn thêm vitamin C, men tiêu hóa vào thức ăn, định kỳ cho ăn 2 lần/tháng, mỗi lần 3-5 ngày liên tục. Ngoài ra còn phải cho ăn 4 đúng (đúng chất lượng, đúng số lượng, đúng thời gian, đúng vị trí). Chú ý thay nước định kỳ không để nước ô nhiễm.

Trị bệnh: Khi phát hiện cá chạch bị nấm có thể tắm cho bằng các loại hóa chất sau: Nước muối 3%; hoặc KMnO4 liều lượng 20g/m3 nước, thời gian 10-15 phút.

Trộn kháng sinh vào thức ăn cho ăn: Doxycyline 0,2-0,3g/kg thức ăn; Oxytetracyline 2-4g/kg thức ăn, cho ăn 5-7 ngày liên tục.

Nguyễn Thị Thu Thắm

Trung tâm Nông nghiệp huyện Đạ Huoai

Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Hô Thương Phẩm

Mô hình nuôi cá hô thương phẩm trong ao và sử dụng thức ăn công nghiệp của Trung tâm khuyến nông tỉnh Kiên Giang được triển khai 4 điểm ở các huyện Tân Hiệp, Giồng Riềng, Châu Thành và U Minh Thượng.

Mô hình nuôi cá hô thương phẩm trong ao và sử dụng thức ăn công nghiệp của Trung tâm khuyến nông tỉnh Kiên Giang được triển khai 4 điểm ở các huyện Tân Hiệp, Giồng Riềng, Châu Thành và U Minh Thượng từ tháng 4/2023; mỗi điểm có 500 m2, mật độ cá giống thả nuôi 1 con/m2 mặt nước.

Mô hình này được Trung tâm khuyến nông tỉnh Kiên Giang hỗ trợ 60% tiền mua cá giống, 30% tiền chi phí thức ăn và vật tư thiết yếu; đồng thời được tập huấn hướng dẫn quy trình kỹ thuật nuôi để nông dân ở địa phương thực hiện mô hình nuôi cá hô thương phẩm trong ao thành công và đạt hiệu quả kinh tế cao.

Theo kỹ sư Nguyễn Thị Lan Thanh, Trung tâm khuyến nông tỉnh Kiên Giang, qua các điểm nuôi kết quả ban đầu cho thấy, cá hô là đối tượng dễ nuôi, khả năng thích nghi rộng và tăng trưởng nhanh, đạt hiệu quả kinh tế khá cao, trung bình lãi 140 triệu/500m2/500 con.

Phó Giám đốc Trung tâm khuyến nông Kiên Giang Phù Khí Nguyên cho biết, nhờ áp dụng tốt quy trình nuôi cá hô thương phẩm trong ao từ khâu cải tạo ao nuôi, chọn giống tốt, thả giống với mật độ thích hợp, đầu tư thức ăn theo từng giai đoạn phát triển của cá và chăm sóc quản lý tốt, nên cá hô nuôi trong ao ban đầu mau lớn và không có hiện tượng xảy ra dịch bệnh, có tỷ lệ sống cao trên 75%.

Sau 18 tháng thả nuôi, đạt trọng lượng bình quân trên 2 kg/con và sản lượng đạt hơn 1.000 kg; với giá bán cá hô thương phẩm trên thị trường hiện nay là 200.000 đồng/kg, trừ các khoản chi phí đầu tư thì mô hình này cho lợi nhuận trên 140 triệu đồng.

Ông Vi Nhựt Quang, ngụ thị trấn Tân Hiệp, huyện Tân Hiệp cho biết, qua mô hình nuôi cá hô trong ao cho thức ăn công nghiệp bước đầu cho hiệu quả khá cao. Qua quá trình thả nuôi, cá ít bị bệnh, sau 18 tháng trung bình mỗi con cân nặng từ 2,3 – 2,4 kg/con; sau khi trừ chi phí, gia đình ông Quang còn lãi trên 150 triệu đồng.

Thấy được hiệu quả mô hình nuôi cá hô thương phẩm trong ao, tháng 7/2023, Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang tiếp tục triển khai mô hình này ở nhiều xã trong huyện Giồng Riềng với 500 m2 và hiện tại cá đang phát triển tốt.

Kỹ sư Nguyễn Thị Lan Thanh khuyến cáo, khâu chuẩn bị ao cần vệ sinh cải tạo ao tốt; có rào chắn lưới quanh ao để không cho cá tạp vào ao làm ảnh hưởng thức ăn cũng như phát triển của cá; chọn con giống phải rõ nguồn gốc, có chất lượng cao, đồng đều, thức ăn phải đủ lượng và chất, điều chỉnh thức ăn phù hợp.

Đối với mô hình nuôi mật độ cao với 1 con/m2, sau khi cá đạt trọng lượng khoảng 1 kg/con cần tăng cường hệ thống ô xy dưới đáy để giúp cá tăng trưởng tốt hơn.

Mô hình nuôi cá hô thương phẩm trong ao và cho thức ăn công nghiệp thành công bước đầu ở một số huyện trong tỉnh Kiên Giang sẽ giúp nhà nông có thêm đối tượng nuôi mới trong phong trào phát triển nuôi trồng thủy sản.

Mô hình này đang được ngành chuyên môn cùng chính quyền địa phương nhân rộng trong thời gian tới nhằm góp phần làm đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi giúp nông dân có thêm việc làm và tăng thu nhập

Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Koi

30 năm trong nghề nuôi và kinh doanh cá cảnh, tuy nhiên chỉ đến khi bắt đầu kinh doanh cá Koi (cá chép Nhật Bản) một cách chuyên nghiệp từ năm 2023, ông Phan Công Câu (trú thôn Phú Sơn 3, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang) mới thực sự “đổi đời” khi nguồn thu nhập từ cá Koi lên đến 300 triệu đồng/năm.

Cá Koi tại trại cá của ông Phan Công Câu.

Cửa hàng bán cá cảnh của ông Phan Công Câu trên quốc lộ 14B, thôn Phú Sơn 3, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang luôn tấp nập người liên tục ra vào hỏi mua và vận chuyển cá Koi đi các nơi. Ông Câu cho biết, ông đang cung cấp cá Koi cho các khách hàng khắp thị trường miền Trung-Tây Nguyên với sản lượng cung cấp xấp xỉ 10.000 con cá Koi mỗi năm.

Khởi nghiệp với nghề nuôi cá cảnh từ năm 1989, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau mà nguồn thu nhập từ nghề ở thời điểm đó chỉ đủ trang trải cuộc sống. Đến năm 2010, nhận thấy thị trường bắt đầu ưa chuộng cá Koi vì có màu sắc đẹp và quan niệm mang lại may mắn cho người nuôi, ông Câu đánh liều vay 150 triệu đồng để nhập 16 con cá Koi đủ màu sắc thuộc nhiều dòng khác nhau về nuôi sinh sản.

Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm nên những lứa cá con ươm giống ban đầu chết hoàn toàn, còn cá mẹ đẻ xong cũng chết vài con. Không nản chí, ông Câu tìm đến những trại cá Koi lớn ở Nam Định, Tiền Giang… để học hỏi cách nuôi loài cá này.  Đồng thời, ông lên mạng internet để học hỏi cách nuôi loài cá Koi sao cho hiệu quả, dần dần những lứa cá sau thu được kết quả tốt. “Để nuôi được cá có vẻ đẹp tự nhiên, tuổi thọ cao thì thức ăn, chế độ dinh dưỡng, môi trường sống là yếu tố quyết định. Đồng thời hồ phải rộng, độ sâu từ 0,8 đến 1,5m, nước trong, sạch, rong, tảo không quá nhiều”, ông Câu cho biết.

Sau một thời gian nuôi và sản xuất cá giống, ông Câu nhận thấy lượng cá sinh sản không đủ. Mỗi lứa cá giống chỉ lựa được 30% số cá đủ tiêu chuẩn để nuôi, còn lại phải thải bỏ. Năm 2023, ông Câu kết hợp với các hộ nuôi cá trong vùng bằng cách ông cung cấp giống cá và các hộ liên kết chịu trách nhiệm chăm sóc và tới thời điểm thu hoạch, ông sẽ mua lại. Nhờ đó thu về hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Ông Nguyễn Ngọc Xảo, thôn Phú Sơn 2, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang cũng là một trong những hộ nuôi cá đang liên kết với ông Câu chia sẻ: “Tôi đang hợp tác với anh Câu nuôi xen cá Koi với cá khác trên với diện tích 1,5ha. Một con cá Koi phát triển tốt cần phải 2-3 khối nước để sinh sống, tuy nhiên, cùng một khối nuôi đó lại có thể nuôi xen các loại cá trắm cỏ, cá mè… Vì cá Koi ăn ở tầng đáy nên có thể tận dụng được nguồn thức ăn của các loại cá trên. Trừ chi phí sản xuất, thu nhập từ việc hợp tác nuôi cá với ông Câu trung bình 60-80 triệu đồng/năm”.

Để nhiều người biết đến thương hiệu cá Koi của mình, ông Câu lập các trang trên mạng xã hội như Facebook, Zalo…để giới thiệu các loại cá Koi của mình. Riêng tại Đà Nẵng, trại cá Koi của ông Câu có thể xem là mô hình cá Koi duy nhất. Từ năm 2023, ông Câu chỉ hợp tác nuôi với các hộ dân khoảng 1.000 con cá Koi, sau 3 năm đã gấp 10 lần số cá đó. Tuy nhiên, để chuyển môi trường sống từ ao qua hồ cá thì chỉ có 60-70% số cá chịu được vì những lý do khác nhau như sốc nước, sốc nhiệt…

Ông Trần Văn Mười, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Khương nhận xét, mô hình nuôi cá Koi của ông Câu đã mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình ông và các hộ liên kết với ông. Từ chỗ là hộ nghèo của xã, nay ông đã có một trại cá cảnh khang trang trên đường quốc lộ 14B, có điều kiện cho các con ăn học đến nơi đến chốn.

Bài và ảnh: MAI QUẾ

Hiệu Quả Từ Nuôi Cá Sặc Rằn Thương Phẩm

Sau 7- 8 tháng thả nuôi, nông dân có thể đạt lợi nhuận từ 40- 60 triệu đồng/1.000m2 ao nuôi. Đó là hiệu quả kinh tế từ mô hình nuôi cá sặc rằn thương phẩm ở huyện đầu nguồn An Phú. Cá sặc rằn là loài dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao.

Một trong những địa phương nổi tiếng với con cá sặc rằn là xã Khánh An (An Phú). Đây còn là nơi nổi tiếng với đặc sản khô, mỗi năm cung ứng thị trường 300- 350 tấn khô các loại, chủ lực là khô sặc rằn. Trước đây, nguồn nguyên liệu làm khô sặc rằn chủ yếu phụ thuộc vào nguồn cung từ Campuchia và Thái Lan.

Gần đây, nguồn cá nguyên liệu ngày càng giảm thì mô hình nuôi cá sặc rằn thương phẩm tại địa phương là giải pháp cung ứng cho các cơ sở chế biến khô sặc rằn ở An Phú. Đầu năm 2011, Phòng Nông nghiệp- Phát triển nông thôn (NN-PTNT) huyện An Phú phối hợp Trung tâm Giống thủy sản An Giang (đơn vị chuyển giao kỹ thuật) đã triển khai dự án “Mô hình ứng dụng khoa học công nghệ phát triển nuôi cá sặc rằn”.

Sau 24 tháng thực hiện, mô hình được Sở Khoa học- Công nghệ nghiệm thu với kết quả cao. Triển khai dự án này, nông dân và kỹ thuật viên được học tập các mô hình nuôi cá sặc rằn hiệu quả và tập huấn ứng dụng thành thạo kỹ thuật sản xuất giống, nuôi thương phẩm cá sặc rằn.

Dự án còn xây dựng thành công 7 mô hình ương giống và xây dựng 9 mô hình nuôi cá sặc rằn thương phẩm. Thành công lớn của dự án là cải tiến được quy trình kỹ thuật trong khâu tuyển chọn con giống và sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm cao (30%), rút ngắn chu kỳ nuôi (từ 3 – 5 tháng so với trước) và tăng vòng vốn sản xuất.

Anh Cường, một trong những người tham gia mô hình nuôi cá sặc rằn đầu tiên ở xã Khánh An, cho biết: “Nhờ theo dõi sát các buổi tập huấn và được kỹ thuật viên thủy sản hướng dẫn tận tình nên tỷ lệ hao hụt rất ít, cá nuôi phát triển tốt”.

Vụ nuôi vừa rồi, anh Cường trúng lớn. Với diện tích 6.000m2, sau 7- 8 tháng nuôi, thu hoạch bình quân 2,2 tấn/1.000m2, trừ chi phí anh Cường còn lãi hơn 300 triệu đồng…

Chủ động được nguồn nguyên liệu sẽ giúp thương hiệu khô cá sặc rằn Khánh An (An Phú) vươn ra thị trường trong, ngoài nước.

Năm 2013, Sở NN-PTNT An Giang cũng đã triển khai dự án “Chuỗi giá trị sản xuất cá sặc rằn” với mô hình 2 héc-ta và 1 cơ sở chế biến khô công suất 200- 250 tấn thành phẩm/năm. Mục tiêu nhằm xây dựng vùng nuôi cá sặc rằn công nghệ cao và cung ứng nguyên liệu cho cơ sở chế biến khô cá sặc rằn xã Khánh An (An Phú).

Đây còn nhằm tổ chức mô hình chuỗi liên kết sản xuất từ sản xuất con giống, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm khô cá sặc rằn Khánh An. Đồng thời, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao vào cơ sở chế biến khô cá sặc rằn để nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, thực hiện công bố hợp quy…

Cá sặc rằn là đối tượng thủy sản dễ nuôi, nhu cầu thị trường lớn và ổn định, người nuôi có thể nuôi quảng canh hoặc thâm canh để tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên của địa phương, góp phần tăng thu nhập, chuyển đổi cơ cấu vật nuôi. Với hiệu quả cao và đầu ra ổn định, cá sặc rằn sẽ là mô hình có tiềm năng phát triển trong thời gian tới.

Cá sặc rằn (còn gọi là cá rô tía da rắn hay cá rô tía Xiêm) là loài phân bố nhiều ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), như: An Giang, Kiên Giang, Cà Mau… Đây là loài cá dễ nuôi, khả năng thích nghi rộng, có thể nuôi thâm canh hoặc nuôi quảng canh trong ao hầm, mương vườn, ruộng lúa. Thức ăn chủ yếu của cá sặc rằn là thực vật thủy sinh và mùn bã hữu cơ. Những năm gần đây, nghề nuôi cá sặc rằn được nhiều nông dân quan tâm đầu tư, mang lại hiệu quả cao.

Theo AGO

Gia Lai: Triển Vọng Từ Mô Hình Nuôi Cá Chình Thương Phẩm

Mô hình nuôi cá chình thương phẩm trong bể xi măng hiện còn rất mới mẻ ở Gia Lai. Tuy nhiên, những thành công bước đầu của ông Đặng Phùng Minh (tổ 6,…

Mô hình nuôi cá chình thương phẩm trong bể xi măng hiện còn rất mới mẻ ở Gia Lai. Tuy nhiên, những thành công bước đầu của ông Đặng Phùng Minh (tổ 6, phường Ngô Mây, thị xã An Khê) đã mở ra nhiều triển vọng cho việc phát triển mô hình này.

Nói về cơ duyên với nghề nuôi cá chình, ông Đặng Phùng Minh cho biết: “Trước đây, tôi là tài xế xe chở mía. Một lần xem chương trình “Nhà nông làm giàu” trên ti vi, tôi thấy mô hình nuôi cá chình rất có hiệu quả. Vì vậy, tôi quyết định khăn gói vào Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản Nha Trang tham gia khóa tập huấn về kỹ thuật nuôi cá chình trong bể xi măng. Sau khóa tập huấn, tôi mạnh dạn đầu tư hơn 1 tỷ đồng khoan giếng lấy nước sạch, xây 400 m2 bể xi măng và đào 200 m2 ao để nuôi cá chình và cá lóc”.

Đáng chú ý, ở thời điểm đó, mô hình nuôi cá chình trong bể xi măng còn quá mới mẻ tại Gia Lai và tỷ lệ người nuôi thành công khá thấp. Thế nhưng, ông Minh vẫn mạnh dạn đầu tư nuôi và quyết tâm làm giàu từ con cá chình. Lần nuôi thí điểm, ông thả 1,2 kg giống, mỗi con có trọng lượng 1 gram (giá mua là 130.000 đồng/con) trong bể chính có diện tích 100 m2, xung quanh là các bể dự bị nuôi cá lóc bông Ấn Độ và cá lóc thường. Sau hơn 1 tháng, nhờ tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, điều kiện vệ sinh môi trường, đàn cá chình đã có trọng lượng trung bình 2 gram/con. “Do mới nuôi thử nghiệm, để tránh rủi ro, cán bộ ở Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản Nha Trang khuyên tôi chọn mua cá giống có trọng lượng ổn định, khoảng 1 gram/con để dễ chăm sóc, giảm tỷ lệ hao hụt. Sau 6 tháng, cá lớn dần phải tách đàn, phân loại để dễ chăm sóc, đảm bảo cho cá phát triển tốt”-ông Minh nói.

Được biết, cá chình là loài dễ nuôi, ít bệnh hơn các loại cá da trơn khác. Loại giống 10 con/kg có thể đạt trọng lượng 1-1,5 kg/con sau 1 năm nuôi thương phẩm. Tuy nhiên, cá chình đòi hỏi phải được chăm sóc theo một quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt. Cụ thể, nguồn nước phải được lọc kỹ các tạp chất, lắng trong trước khi cho vào bể nuôi; bể nuôi phải đảm bảo không được thiếu nước hay thừa nước, oxy trong bể xi măng cũng không được thừa hoặc thiếu. Cứ 3 ngày phải tiến hành thay nước bể một lần để hạn chế tảo sinh sôi nảy nở với mật độ lớn gây thiếu hụt nguồn oxy cho cá. Mỗi ngày cho cá ăn vào tầm 7 giờ tối, sau đó phải rửa sạch giá thức ăn để loại bỏ cặn bã, thức ăn dư thừa làm bẩn nước, gây độc tố. Tuy nhiên, ông Minh cũng cho biết, muốn đưa chế độ dinh dưỡng cao cho cá, cần áp dụng các biện pháp tổng thể khác như sử dụng máy quạt khí và tuân thủ chặt chẽ việc quản lý môi trường nước trong bể nuôi. Vì thế, máy quạt khí cũng tự tay ông sáng chế nên lượng oxy trong bể lúc nào cũng ổn định cho cá.

Trong nuôi trồng thủy sản, chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ khá cao. Vì vậy, việc nắm bắt giá trị dinh dưỡng của từng nguồn nguyên liệu và phương thức phối chế thức ăn là cần thiết nhằm sử dụng có hiệu quả và kinh tế nhất trong nuôi cá. Để đạt hiệu quả cao nhất, ông Minh tự tay chế biến thức ăn cho cá. Hàng ngày, ông mua cá rô phi từ các lòng hồ thủy điện ở huyện Kông Chro đem về ướp muối, sau đó cho vào tủ lạnh để với nhiệt độ từ -5 tới 0 độ C. Ông lấy lúa xay thành bột rồi trộn với cá xay nhuyễn làm thức ăn cho cá. Khi được hỏi về cách chế biến thức ăn này, ông Minh cho biết: “Tôi chế biến nguồn thức ăn này là giảm được một nửa chi phí so với thức ăn công nghiệp hiện có. Thức ăn do mình tự sáng chế đã tích hợp sẵn thuốc ngừa bệnh nên cá không mắc các bệnh đường ruột, bệnh gan. Tỷ lệ cá sống đạt cao”.

Sau 1 năm nuôi cá, ông Minh đã mở công ty bán sản phẩm của mình. Tất cả sản phẩm đều được kiểm định tại Chi cục Quản lý Chất lượng Nông-Lâm sản và Thủy sản (Sở Nông nghiệp và PTNT) và hoàn toàn không phát hiện các hàm lượng kim loại nặng như: chì, cadimi, asen hoặc thủy ngân. Trước đó, tháng 12-2023, cá chình thương phẩm của ông Minh đã có mặt tại Chợ phiên nông sản an toàn tổ chức tại TP. Pleiku. “Tự tin vào tay nghề của mình nên năm nay tôi sẽ mở thêm một ao nữa. Với giá bán 480.000-500.000 đồng/kg như hiện nay, sau một vụ nuôi 12 tháng có thể thu lãi từ 230.000 đồng đến 260.000 đồng/con”-ông Minh cho biết.

Làm Giàu Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn

Ông Bùi Vĩnh Thái, người đầu tiên ở An Giang thực hiện mô hình nuôi cá chạch bùn trong ao đất mang lại hiệu quả cao. Ông còn thành công trong việc SX con giống tại cơ sở ấp Hòa Thuận, xã Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành (An Giang). Hiện nay, không riêng ông Thái cho đẻ nhân tạo cá chạch bùn, nhiều viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản cũng nghiên cứu cho cá chạch bùn sinh sản nhằm giúp người nuôi đẩy mạnh phát triển nuôi cá thương phẩm.

Ông Thái cho biết, ông bắt đầu thả nuôi cá chạch từ tháng 4/2013 với số lượng ban đầu là 300.000 con giống trên diện tích 2.000 m2. Đến nay, ông đã tăng diện tích lên 10 ao với khoảng 5 ha. Nguồn lợi nhuận mang lại cho ông hàng chục triệu đồng/tháng. Được biết, tại các tỉnh Đồng Tháp, Hậu Giang, Cần Thơ và một số tỉnh miền Đông, nhiều hộ nuôi cũng đang mở rộng diện tích SX con giống và cá thương phẩm.

Đặc biệt, cá chạch bùn khi chuyển đi xa, người ta có thể ướp nước đá cho cá ngủ đông trong khoảng 5 tiếng đồng hồ. Sau đó thả cá vào nước ngọt, cá sẽ sống lại nên rất thuận tiện cho việc chuyên chở. Nhờ có nhiều năm kinh nghiệm nuôi cá nước ngọt nên ông Thái nắm vững kỹ thuật chọn cá bố mẹ, cho cá sinh sản… Ông khẳng định: “Cá chạch bùn không những dễ nuôi mà còn phát triển nhanh, giá cả thị trường hiện rất hấp dẫn nên tôi mạnh dạn đầu tư vào mô hình này”.

Ông Thái không những SX con giống mà còn SX cá thương phẩm để cung cấp cho thị trường Cần Thơ, An Giang và các tỉnh lân cận. Từ đầu năm 2013 đến nay ông đã cung cấp hơn 42 triệu cá bột, hiện bán với giá 40 đồng/con. Nếu bán cá hương sẽ được 1.000 đồng/con. Ngoài ra ông còn đưa ra thị trường trên khoảng 1,7 tấn cá thịt với giá 300.000 đồng/kg.

Ngoài việc SX và ươm giống, ông còn làm đầu mối thu mua cá chạch của nông dân đem đi tiêu thụ các nhà hàng trong khu vực ĐBSCL. Tuy bận rộn công việc, nhưng ông Thái sẵn sàng hướng dẫn nhiệt tình, tư vấn kỹ thuật nuôi cá cho bà con nông dân, nhằm tạo điều kiện cho người nuôi phát triển ngày càng nhiều, nhằm góp phần tăng đa dạng hóa loài thủy sản nước ngọt.

Hiện nay, có một số người, trong đó có nhà hàng và quán ăn đã nhầm lẫn giữa cá chạch bùn và chạch quế. Cá chạch bùn mình dẹp, khi nấu chín xương mềm, còn cá chạch quế thịt cũng rất thơm ngon nhưng mình hơi tròn và xương cứng.

Theo tài liệu nghiên cứu của một số cán bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, cá chạch bùn là loại mới nhập khẩu đang được nhân rộng và phát triển ở miền Trung và các tỉnh ĐBSCL. Chạch bùn có thể sống ở sông, hồ, ao và ruộng lúa, nơi có đáy bùn và nước chảy nhẹ. Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã cho sinh sản nhân tạo thành công, kích thích bằng não thùy. Kết quả cho thấy cá cái thụ tinh đạt 70% và tỷ lệ nở đạt 60%.

Ông Thái cho biết thêm: “Trong thiên nhiên, cá chạch bùn lúc nhỏ ăn giun và ấu trùng trong đất là chính, sau đó chuyển dần sang ăn tạp. Đến giai đoạn trưởng thành, thức ăn chủ yếu của chúng là thực vật như tảo, thân lá cây, cỏ non. Đối với cá nuôi, người ta sử dụng nhiều thức ăn khác nhau, từ thức ăn chế biến đến thức ăn công nghiệp. Khi cá có chiều dài trên 5 cm, người ta thường cho ăn thức ăn dạng viên nổi, độ đạm dao động từ 38-40%”.

Theo ông Thái khi nuôi cá chạch bùn rất yên tâm và chủ động hoàn toàn nguồn thức công nghiệp, giúp cá khỏe và nhớn nhanh. Với hệ số thức ăn 1.7 sẽ cho ra 1 kg cá chạch thương phẩm khoảng 25 – 30 con.

Cá chạch bùn thường sinh sản từ tháng 4 đến tháng 10, tỷ lệ sinh sản cao nhất từ tháng thứ 6 – 8. Cá bột sau khi nở được ươm trong bể xi măng, ăn thức ăn phù du và lòng đỏ trứng. Cá hương cũng tiếp tục ươm trong bể xi măng rộng hơn và ăn thức ăn viên công nghiệp. Thường mỗi ngày cho ăn 2 lần lúc 8 giờ sáng và 4 giờ chiều.

Muốn cho cá mau lớn và đạt năng suất cao, bể nuôi và ao nuôi cần được thay nước sạch thường xuyên. Nói tóm lại, dù nuôi ở bất cứ hình thức nào, muốn thành công, người nuôi phải tuân thủ nghiêm nhặt các quy định về chuyên môn, nhất là ao nuôi phải được cải tạo và thường xuyên phòng chống dịch bệnh.

Con cá tiềm năng

Sau khi tham quan các ao cá chạch bùn của ông Thái, ông Lê Văn Hải, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Bình Thạnh nhận định, đây là mô hình mới mẻ nhưng thật hấp dẫn và độc đáo được nuôi và nhân giống tại An Giang. Nó có thể giúp người nuôi mở ra một con đường phát triển SX đầy triển vọng.

Tuy nhiên, muốn phát triển bền vững, tránh điệp khúc “hàng nhiều dội chợ”, gây tổn thất cho người nuôi, các nhà chuyên môn, các ngành chức năng phải vào cuộc bằng cách hướng dẫn, tư vấn cho bà con nắm bắt được những thông tin khoa học, kinh tế cần thiết để tránh những thiệt hại về sau. Bằng kinh nghiệm nuôi trồng và SX kinh doanh, chắc bà con chưa quên những bài học xương máu về con cá tra, cá rô đầu vuông và cá điêu hồng “hễ được mùa là rớt giá”.

TS Bùi Minh Tâm, Phó trưởng Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt, Khoa Thủy sản, Trường ĐH Cần Thơ có ý kiến việc nuôi cá chạch như sau: “Ở ĐBSCL có nhiều loại cá chạch như chạch khoan, chạch rằn, chạch bông, chạch cơm, chạch lấu… Chúng thường sống trong ao hồ, sông rạch và thích ẩn mình dưới những lớp bùn, hoặc đeo bám theo các giề lục bình, nơi sông sâu nước chảy. Riêng cá chạch bùn, tên khoa học Misgurnus anguillicaudatus cantor) là loại cá mới xuất hiện trên thị trường gần đây. Giá trị kinh tế cao, được nhiều người ưa dùng.

Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta phát triển ồ ạt, bất chấp những quy luật khách quan, có thể dẫn tới nhiều rủi ro và bất trắc sau nầy. Thực tế cho thấy, cá chạch bùn không dễ nuôi như một số người đã nghĩ. Nếu không nắm vững kỹ thuật, nhất là thức ăn, môi trường nước, cá sẽ chậm lớn, hao hụt nhiều, năng suất không cao.

Muốn đầu tư và phát triển bền vững, đạt hiệu quả, nhất thiết chúng ta cần phải lắng nghe những lời khuyến cáo của các nhà khoa học, các chuyên gia về thực phẩm, đặc biệt là ý kiến tư vấn của ngành khuyến nông khuyến ngư”.

Theo ông Tâm, việc phát triển nuôi trồng thủy sản hiện nay được Bộ NN-PTNT động viên và khuyến khích nhất là các loài thủy sản bản địa. Riêng đối với các loài thủy sản có nguồn gốc từ nước ngoài, chúng ta nên hết sức thận trọng, đi từng bước và tuyệt đối phải tuân thủ ý kiến chỉ đạo và lời khuyến cáo của ngành thủy sản và các cơ quan chức năng.

Nguồn: sưu tầm

Cập nhật thông tin chi tiết về Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn Thương Phẩm Tại Huyện Đạ Huoai trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!