Bạn đang xem bài viết Hiệu Quả Kinh Tế Của Mô Hình Cá Mú Đìa được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tại Khánh Hòa, bên cạnh các đối tượng hải sản nuôi truyền thống như cá bóp, cá chim, ốc hương … ngư dân Nha Trang đang từng bước đưa vào nuôi các đối tượng hải sản mới có giá trị kinh tế ao như cá mú trong đó, mô hình nuôi cá tại đìa tự nhiên bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân địa phương.
Ông Lê Ngọc Quang hội viên nông dân phường Vĩnh Trường – một phường biển có nhiều mặt hàng thủy sản nổi tiếng tại Nha Trang, là người có kinh nghiệm nuôi thủy sản lâu năm cho biết: cách dây 7 năm, sau bao nhiêu năm đi bạn, nhận thấy tuổi đã lớn không còn đủ sức khỏe, sau khi tìm hiểu ông quyết định thuê 8 ha đìa tại Cam Lâm và ông thả nuôi 1.500 con giống cá mú, kích cỡ cá giống từ 6 – 8 cm. Mặc dù lần đầu tiên nuôi thử nghiệm, nhưng cá mú thích nghi tốt với điều kiện môi trường tự nhiên vùng ven biển của địa phương nên cá sinh trưởng và phát triển nhanh. Sau hơn 1 năm tháng nuôi, tỷ lệ sống đạt 75%, trọng lượng cá đạt từ 0,8 – 1 kg/con, sản lượng thu hoạch khoảng 1,4 tấn. Với giá bán từ 210.000 – 220.000 đồng/kg, ông thu được 310 triệu đồng, trừ các chi phí còn lãi 160 triệu đồng. So với các đối tượng nuôi truyền thống như cá bớp thì mô hình nuôi cá mú cho hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều. Ông …. cho biết thêm, sau khi thu hoạch hết vụ cá nuôi thử nghiệm đó, ông đã tiếp tục đầu tư nuôi cá mú số lượng nhiều hơn, bởi dù là đối tượng nuôi mới nhưng cá mú mang lại hiệu quả kinh tế rất cao, đầu ra ổn định, thị trường tiêu thụ rộng.
Sau thành công của vụ nuôi thử nghiệm, ông … đã tích lũy thêm một số kinh nghiệm nuôi cá cá mú và cùng 1 số người bạn mở rộng thêm 10 ha để thả cá. Hội Nông dân thành phố đã nhận thấy mô hình có tiềm năng phát triển và hỗ trợ nguồn vốn 100 triệu đồng từ nguồn Quỹ HTND thành phố cho 04 hộ vay được nhân rộng mô hình từ ông. Sau khi nhận hỗ trợ từ Quỹ HTND thành phố , ông cùng những người bạn đã xúc tiến mua giống và thả vào 10 ha đìa mới mở rộng.
Để cho các anh em trong nghề học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, ông không ngại ngần chia sẻ những kinh nghiệm mình đúc rút qua 7 năm nuôi cá mú: Chọn vị trí nuôi tại các đìa sát biển. Thức ăn cho cá chủ yếu là cá tạp tươi, rửa sạch ngâm trong nước ngọt trước khi cho ăn để hạn chế mầm bệnh. Thức ăn được rửa, cắt nhỏ phù hợp với miệng cá và cho ăn 2 lần/ngày vào lúc sáng sớm và chiều mát. Định kỳ sử dụng vitamin C và men tiêu hóa trộn vào thức ăn để tăng khả năng bắt mồi và sức đề kháng cho cá. Thường xuyên vệ lặn theo dõi đáy đìa để xem lượng thức ăn còn sót lại nhiều hay ít để hôm sau tặng hoặc giảm lượng thức ăn cho phù hợp. Thả luân canh để dễ thu hoạch và có thu nhập đều. Thả thêm cá dìa và cá giò để vệ sinh đìa. Sau 7 năm nuôi ông hiện chưa bị thất bại mùa vụ nào do dịch bệnh của cá mú.
Hiện nay, tại Nha Trang có gần 10 hộ nuôi cá mú thuê đìa tại Cam Lâm. Mặc dù mô hình nuôi cá mú đã đạt được những thành công bước đầu và đầu ra sản phẩm ổn định, tuy nhiên hiện nay giống phải nhập từ Đài Loan và Trung Quốc về nên nguồn giống giá cao và khan hiếm. Mặc dù còn những khó khăn nhất định, nhưng thành công của mô hình nuôi cá mú đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân, không chỉ góp phần đa dạng hóa sản phẩm và đối tượng hải sản nuôi, mà còn mở ra hướng đi mới đầy triển vọng trong việc phát triển bền vững nghề nuôi cá tại Nha Trang./.
Nguyễn Lê Ái Vũ
Hiệu Quả Kinh Tế Từ Mô Hình Nuôi Cá Bông Lau Trong Ao Đất
Cá bông lau là loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, trước nay thường được khai thác chủ yếu trong tự nhiên. Mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất bằng giống nhân tạo được triển khai ở xã An Thạnh Ba huyện Cù Lao Dung đã mở ra hướng mới để khai thác giá trị kinh tế của loài thuỷ sản này.
Tại xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, Dự án “Xây dựng mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất”, do Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Sóc Trăng phối hợp với Trường Cao đẳng kinh tế – kỹ thuật Cần Thơ thực hiện đã triển khai thí điểm tại 3 hộ dân, thả nuôi theo mật độ 2 con/m2 và 1 con/m2. Ao nuôi của hộ anh Lâm Thành Lâm ở ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, một trong 3 điểm triển khai của dự án đã thả nuôi 4.000 con giống trong ao nuôi, với diện tích 2.000 m2. Ao nuôi có trang bị quạt nước tạo dòng chảy và đảm bảo lượng oxy.
Nguồn con giống nhân tạo được cung cấp từ Trung tâm quốc gia giống thuỷ sản nước ngọt Nam bộ, huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang. Con giống được thả nuôi từ cuối tháng 1/2023, kích cỡ dài từ 8 -10cm, sau 11 tháng nuôi, kiểm tra thực tế tại ao, cá đã đạt trọng lượng phổ biến từ 1kg đến 1,2kg/con. Một số ít đạt trọng lượng 1,4 ký đến 1,5 kg/con.
Tại buổi hội thảo đánh giá hiệu quả mô hình, các cán bộ dự án và bà con nông dân ở 2 xã An Thạnh Ba và An Thạnh Nam huyện Cù Lao Dung, đã trao đổi làm rõ tính hiệu quả của mô hình, chia sẻ kỹ thuật chăm sóc khi nuôi cá bông lau trong ao đất. Theo đó, kết quả nổi bật là cá nuôi có tỉ lệ hao hụt ít, dễ chăm sóc, tăng trọng nhanh, giá tiêu thụ trên thị trường đảm bảo hộ nuôi có lãi. Anh Lâm Thành Lâm, ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, cho biết: “Qua kết quả nuôi, tôi thấy loài này dễ chăm sóc, chí phí thức ăn và chi phí khác cho mỗi kg khoảng 60.000đ, giá bán trên thị trường giao động từ 80.000 đến 120.000 thì mỗi kg thu lời từ 20.000 đến 30.000 đồng/kg”.
Ao nuôi cá được trang bị quạt nước tạo dòng chảy và đảm bảo lượng oxy.
Điểm đáng chú ý là trong 7 tháng đầu thả nuôi, nước trong ao có độ mặn từ 2 đến 8 phần ngàn. Đây là điểm khác biệt về môi trường tự nhiên ở An Thanh Ba so với các vùng sinh thái khác, rất phù hợp với đặc tính sinh trưởng của cá bông lau. Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung, Giảng viên Trường cao đẳng kinh tế-kỹ thuật Cần Thơ, Chủ nhiệm dự án cho biết: “Chúng tôi cũng có triển khai mô hình tại huyện Kế Sách toàn nước ngọt thì thấy, tại An Thạnh ba, 2/3 thời gian nuôi là nước lợ thì cá bông lau sinh trưởng tốt, tăng trọng nhanh”.
So với các giống loài thủy sản khác đã từng nuôi ở xã An Thạnh Ba, cá bông lau nuôi trong ao đất được các hộ tham gia mô hình thí điểm đánh giá có triển vọng về hiệu quả kinh tế. Ông Trần Thanh Nhã, ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, hộ tham gia mô hình, nói: “Cá này nuôi 11 tháng thì vô kg, chi phí nuôi khoảng 70.000đ, giá thị trường tiêu thụ khoảng 100 ngàn thì thu lãi mỗi ký 30 ngàn, so cá tra, cá lóc thì nó khá hơn”.
Mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất giúp đa dạng giống loài trong nuôi trồng thủy sản của huyện Cù Lao Dung.
Năm 2023, nông dân Cù Lao Dung đã tăng diện tích nuôi thủy sản lên 3.500 ha; trong đó nuôi tôm 2.750 ha, nuôi các loài thủy sản khác 750 ha. Việc đa dạng giống loài thủy sản phù hợp điều kiện sinh thái, cho hiệu quả kinh tế đang được huyện rất quan tâm. Ông Đồ Văn Thừa, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cù Lao Dung, cho biết: “Việc thí điểm mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất, giúp huyện có thêm lựa chọn về giống loài thủy sản cho nông dân phát triển sản xuất, phù hợp sinh thái vùng”.
Theo bà con nông dân, do là loại cá ngon nên thị trường tiêu thụ cá bông lau rất dễ dàng. Tuy nhiên, sức tiêu thụ chưa lớn, thương lái thu mua nhỏ lẻ, giá bán chưa ổn định, khả năng cho lãi nhưng chưa cao chính là những yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất ở Cù Lao Dung.
Cá Mú Trân Châu Hiệu Quả Kinh Tế Cao
I. Vận chuyển cá giống
Để giảm thiểu hao hụt và đảm bảo sức khỏe cho cá khi phải vận chuyển đi xa, cần phải biết cách xử lý cá trước khi vận chuyển đồng thời nắm rõ các biện pháp kỹ thuật vận chuyển.
Cá mú giống
1. Xử lý cá trước khi vận chuyển
Cá mú con đánh bắt ngoài tự nhiên phải được nhốt tạm từ 1-2 tuần trong bể hoặc trong thùng có sục khí liên tục. Hai ngày đầu không cần cho ăn. Từ ngày thứ 3, cho ăn ít và tăng liều lượng lên dần. Sau đó dùng các học lưới với kích cỡ mắt lưới khác nhau để phan loại cá theo các kích cỡ sau đây:
– Cá bột nhỏ: 2,5-5cm
– Cá bột lớn: 5-7,5cm
– Cá giống nhỏ: 7,5-10cm
– Cá giống trung bình: 10-12,5cm
Sau khi phân loại, nên tắm cho cá bằng nước ngọt (từ 15-30 phút) để diệt các vi sinh vật có hại, sau đó mới vận chuyển về nơi ương nuôi. Lưu ý những con bị thương phải được nuôi dưỡng trong bể riêng, khi chúng hồi phục hoàn toàn thì mới vận chuyển về ao ương nuôi.
Với cá ương trong bể, thời điểm thu hoạch cá thích hợp nhất là vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Dùng vợt mềm vớt cá cho vào giai hoặc bể nước sạch đã chuẩn bị trước. Thao tác vớt phải nhanh và nhẹ nhàng.
Trước khi vận chuyển, phải nhốt cá trong giai nước sạch với mật độ dày để cho chúng quen dần với diều kiện sống chật hẹp và thải bớt phân. Có thể nhốt từ 8-12 giờ. Lưu ý: trong khoảng thời gian nhốt, không nên cho cá ăn.
2. Kỹ thuật vận chuyển cá
Trong quá trình vận chuyển cá giống, tỷ lệ sống và mức độ an toàn của cá phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật vận chuyển. Trong đó các yếu tố như dụng cụ đựng cá, phương tiện vận chuyển, nhiệt độ thời tiết, lượng oxy hòa tan trong nước, khí độc trong mưa, thời gian vận chuyển…đều ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cá. Áp dụng đúng biện pháp kỹ thuật sẽ giúp nâng cao tỷ lệ sống cho cá.
Phải ngưng cho cá ăn trong 24 giờ trước khi vận chuyển, đồng thời nên tắm cho cá bằng thuốc tím 0,15ppm (từ 5-10 phút) hoặc tắm bằng dung dịch Furacin 0,05% (từ 3-5 phút).
Có hai phương pháp vận chuyển cá: vận chuyển kín và vận chuyển hở.
– Phương pháp vận chuyển kín: vận chuyển cá bằng túi nilon có bơm oxy với áp suất thích hợp.
– Phương pháp vận chuyển hở: vận chuyển cá bằng thùng phuy, thùng tôn, thùng nhựa hoặc sót nilon.
* Phương pháp vận chuyển bằng túi nilon hoặc can nhựa được xem là phương pháp tiên tiến cho hiệu quả cao, vì vậy mà được rất nhiều người áp dụng.
* Phương pháp vận chuyển kín: Thường chứa cá trong túi nilon có bơm oxy rồi vận chuyển bằng các phương tiện như xe ô tô, máy kéo, ba gác máy, ghe, thuyền…
* Đóng túi: Dùng hai túi nilon có đáy bằng, cho vào khoảng 8 lít nước biển, nước được làm lạnh ở nhiệt độ 23-250C. Nếu vận chuyển trong thời gian dưới 8 tiếng thì nên cho lượng nước chiếm 4/5 túi. Nếu vận chuyển trong thời gian trên 8 tiếng thì nên cho lượng nước chiếm 2/3 túi. Vuốt hết không khí trong túi ra, bơm oxy vào, sau đó cho cá vào, tiếp tục bơm oxy vào đến khi căng túi, buộc túi lại. Cho túi cá vào thùng xốp, đặt các bao đá xung quanh để làm mát cá. Dán kín thùng xốp bằng băng keo rồi đưa lê phương tiện vận chuyển. Nên vận chuyển cá trên phương tiện có máy điều hòa nhiệt độ.
Mật độ cá trong túi: Mật độ cá trong túi nilon tùy thuộc vào kích cỡ của cá. Cá cỡ 2,5cm, nhốt từ 100-150con/lít nước; cá cỡ 5cm, nhốt từ 30-50con/lít; cá 7cm, nhốt từ 10-15con/lít.
Lưu ý: Nên vận chuyển cá lúc trời mát, tốt nhất là vào sáng sớm. Nếu vận chuyển cá trong mùa nắng thì phải che đậy kỹ càng, không để ánh nắng trực tiếp chiếu vào túi nilon vì có thể làm tăng nhiệt độ nước trong túi và dẫn đến chết cá. Sau 8 tiếng vận chuyển phải bơm oxy. Sau 16 tiếng phải thay nước và bơm oxy. Sau 24 tiếng phải cho cá nghỉ ngơi trong vèo lưới hay trong bể từ 8-12 giờ. Muốn vận chuyển tiếp phải đóng túi lại. Tổng thời gian vận chuyển cá không nên quá 50 giờ. Khi vận chuyển cá đến nơi, thao tác mở thùng phải nhẹ nhàng nhằm tránh làm cá hoảng sợ. Trước khi thả cá, phải cân bằng nhiệt độ và độ mặn nước ao và nước trong túi cá.
II. Kỹ thuật nuôi cá mú thịt1. Chuẩn bị ao nuôi
* Chọn vị trí ao
Ao nên nằm ở vùng đất sét hay cát pha sét, tránh vùng đất phèn. Mực nước thủy triều ít nhất là 80cm. Phải có ao lắng để xử lý nước thải.
Ao nằm ở nơi có nhiều ánh sáng mặt trời, không bị bóng cây che khuất. Ao gần nguồn nước, gần nhà để tiện theo dõi và quản lý.
* Điều kiện ao nuôi
– Tùy theo từng điều kiện mà chọn ao có diện tích phù hợp, có thể từ 100m2 trở lên. Ao có độ sâu từ 1,5-2m. Độ sâu mực nước ao từ 1,2-1,5m. Bờ ao cao hơn mực nước ao trong năm, khoảng 0,5m để chống ngập.
– Cống, bọng phải được làm chắc chắn và thuận tiện cho việc cấp, thoát nước. Bờ ao phải đảm bảo không bị sạt lở, rò rỉ. Đáy ao bằng phẳng và dốc về bọng nước. Nếu có điều kiện thì trải bạt xung quanh bờ ao để ngăn cá đào hang. Bọng phải có lưới chắn để không cho cá ra ngoài cũng như không cho địch hại vào ao.
– Nguồn nước phải gần ao để thuận tiện cho việc cấp nước. Nước phải sạch sẽ, không bị ô nhiễm và phải chủ động suốt quá trình nuôi. Yêu cầu về chất lượng nước: nhiệt độ= 25-32oC, độ mặn= 20-30‰, pH= 7,5-8,5, độ trong = 30-45cm, hàm lượng oxy hòa tan= 4-8mg/L, NH3 ≤0-0,008mg/L, độ kiềm= 60-100mg/L.
– Thả một số ống tre hoặc ống nhựa (đường kính 10-20cm) vào ao để làm nơi cho cá ẩn nấp nhằm hạn chế cá tấn công lẫn nhau đồng thời giúp việc kiểm tra và thu hoạch cá được đễ dàng.
* Cải tạo ao
– Tháo nước cạn ao và dọn sạch rác, bắt hết cá tạp và địch hại như: rắn, cua, ếch…Có thể diệt tạp bằng Rotenon (liều lượng 40kg/ha), bánh bã trà (liều lượng 150-200kg/ha). Vét bớt lớp bùn thối lâu ngày ở đáy ao. Tu bổ lại bờ ao, cống rãnh. San lắp các lỗ mọi rò rỉ.
– Rải vôi bột xuống đáy ao và xung quanh ao để diệt khuẩn và điều chỉnh độ pH, liều lượng sử dụng: 10-15kg/100m2. Sau đó phơi nắng đáy ao khoảng 3-4 ngày.
– Lấy nước: Lần đầu chỉ lấy nước ở mức 0,4-0,5cm, sau đó bón phân rồi lấy đủ nước. Lưu ý: nước phải chảy qua lưới lọc để ngăn cá tạp và địch hại.
– Bón phân cho ao: Sau khi lấy nước lần đầu, tiến hành bón phân để gây màu nước và tạo nguồn thức ăn tự nhiên. Có thể bón phân chuồng (2tấn/ ha), cách bón: rải đều phân khắp đáy ao; phân urê (25kg/ha); hoặc phân Diamonium phosphat (50kg/ha), cách bón: hòa tan phân trong nước rồi tưới đều khắp đáy ao.
– Sau 4-5 ngày bón phân là có thể thả giống.
2. Chọn và thả cá giống
– Nên chọn cá giống có kích cỡ càng lớn càng tốt, từ 8-15cm. Cá giống càng lớn thì tỷ lệ hao hụt càng ít. Tốt nhất là lấy cá giống sinh sản nhân tạo ở các trại cá uy tín, hạn chế lấy cá từ nguồn khai thác tự nhiên.
– Chọn cá giống khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, bơi lội nhanh nhẹn, không bị say sát, không bị dị hình hay dị tật.
– Mật độ nuôi: nên thả với mật độ thưa, khoảng 2-3con/m2.
Cách thả cá:
Nên thả cá lúc trời mát, tốt nhất là vào sáng sớm hoặc chiều tối. Trước khi thả cá xuống ao, nên cân bằng nhiệt độ và độ mặn. Trường hợp cá giống đựng trong bọc nilon, thì phải ngâm bọc cá trong nước ao khoảng 10-15 phút để nhiệt độ cân bằng với nhiệt độ nước ao, sau đó mới mở bọc và thả cá ra từ từ. Trường hợp cá giống đựng trong thùng hoặc can nhựa…thì trước khi cho cá vào bể, phải cho chúng qua một cái chậu lớn, từ từ thêm nước ao vào chậu để chúng thích nghi dần với điều kiện mới, sau khoảng 15 phút mới thả cá vào ao. Tuyệt đối không cho cá vào ao một cách đột ngột hoặc đứng trên bờ đổ cá xuống ao vì sẽ làm cho cá dễ bị sốc và chết.
3. Cho ăn và chăm sóc
a. Thức ăn
– Nhiều người dùng thức ăn là cá rô phi: thả cá rô phi (5000-10000 con/ha) trước khi thả cá mú 1 tháng. Khi thả cá mú vào ao thì chúng có thức ăn ngay.
Cá mú thịt
– Ngoài ra cũng có thể cho ăn bằng các loại cá tạp tươi cắt nhỏ như cá cơm, cá trích, cá nục, cá liệt…
b. Cách cho ăn
– Để cá dễ ăn và dễ quản lý thức ăn, nên cho thức ăn vào sàn và đặt vào nhiều vịu trí trong ao cho cá ăn, nên đặt sàn ở 4 góc ao và giữa ao, sàn cách mặt nước khoảng 0,5-0,6m.
– Thức ăn của cá (các loại cá tạp) phải được rửa sạch, cắt thành từng miếng nhỏ vừa với cỡ miệng cá ăn.
– Mỗi ngày cho ăn hai lần, vào buổi sáng (7 giờ) và chiều mát (17 giờ); khẩu phần ăn hằng ngày bằng 7-10% tổng trọng lượng có trong ao (cứ 100 kg cá thì cho 7-10kg thức ăn), và giảm dần theo sự tăng trọng của cá. Khi cá đạt 200g/con trở lên, thì cho ăn ngày một lần và khẩu phần ăn giảm xuống còn 5%.
– Nên cho cá ăn đúng giờ và cho ăn từ từ.
– Định kỳ trộn Vitamin C và Premix khoáng vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng bệnh cho cá. Lượng Vitamin C và Premix chiếm khoảng 2% lượng thức ăn.
c. Chăm sóc
– Thường xuyên theo dõi cá ăn để đánh giá được mức ăn của chúng mà điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp tránh tình trạng thiếu hoặc thừa. Thiếu thức ăn thì cá chậm lớn, thừa thức ăn thì sẽ gây ô nhiễm nước và ảnh hưởng đến sức khỏe của cá.
– Duy trì màu xanh nước ao bằng cách định kỳ bón thêm phân chuồng. Khoảng 15 ngày bón 1 lần, liều lượng: 10-15kg/100 m2 ao.
– Định kỳ (1 tuần 2 lần) thay nước vào ao, mỗi lần thay khoảng 20-40% lượng nước ao, tùy theo chất lượng ao. Khi thấy nước có màu xanh quá đậm, màu xám hay có mùi hôi do tảo hoặc thức ăn phân hủy thì phải thay nước ngay. Có thể dùng nước thủy triều hoặc nước bơm từ ao chứa để thay. Khi thay nước, nên xả phần nước ở đáy rồi bơm nước mới vào. Nước dẫn vào ao phải qua lưới chắn để ngăn cá tạp và địch hại.
– Thường xuyên kiểm tra các yếu tố chất lượng nước như nhiệt độ, độ mặn, độ pH…, và phải giữ cho các chỉ số này luôn ổn định.
– Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá, nếu thấy có dấu hiệu bất thường thì phải kiểm tra ngay để xử lý kịp thời.
– Thường xuyên kiểm tra bờ ao, cống rãnh để khắc phục kịp thời khi bị sạc lở, rò rỉ.
– Hàng tuần lọc và phân đàn kích cỡ cá để tránh tình trạng cá lớn ăn cá bé đồng thời tăng không gian sống cho chúng.
4. Thu hoạch
Sau 6-10 tháng nuôi (tùy theo kích cỡ của cá giống) là có thể thu hoạch cá thịt, kích cỡ cá thường phẩm từ 0,6-1kg/con. Có thể thu tỉa những con cá lớn hoặc thu hoạch toàn bộ để lấy ao nuôi vụ khác.
Trước khi thu hoạch 2 giờ, nên khuấy mạnh nước để tránh trường hợp cơ của cá bị cứng. Đặt một lồng lưới trong ao để giữ tạm cá. Chuẩn bị các thau, chậu máy sục khí để đựng và bảo quản cá.
Thu hoạch toàn bộ: Tháo bớt một lượng nước ao, dùng lưới đánh bắt vài lần, sau đó tháo cạn nước và bắt toàn bộ. Nên thu hoạch vào lúc trời mát để cá ít bị mệt. Cá sau khi thu hoạch thì cho vào các dụng cụ chứa để rửa sạch bùn và xả bớt chất thải, sau đó chuyển đến nơi tiêu thụ. Khi phải nhốt cá trong các dụng cụ chứa quá lâu thì cần phải sục khí để chúng không bị ngợp.
Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.
Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Koi
30 năm trong nghề nuôi và kinh doanh cá cảnh, tuy nhiên chỉ đến khi bắt đầu kinh doanh cá Koi (cá chép Nhật Bản) một cách chuyên nghiệp từ năm 2023, ông Phan Công Câu (trú thôn Phú Sơn 3, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang) mới thực sự “đổi đời” khi nguồn thu nhập từ cá Koi lên đến 300 triệu đồng/năm.
Cá Koi tại trại cá của ông Phan Công Câu.
Cửa hàng bán cá cảnh của ông Phan Công Câu trên quốc lộ 14B, thôn Phú Sơn 3, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang luôn tấp nập người liên tục ra vào hỏi mua và vận chuyển cá Koi đi các nơi. Ông Câu cho biết, ông đang cung cấp cá Koi cho các khách hàng khắp thị trường miền Trung-Tây Nguyên với sản lượng cung cấp xấp xỉ 10.000 con cá Koi mỗi năm.
Khởi nghiệp với nghề nuôi cá cảnh từ năm 1989, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau mà nguồn thu nhập từ nghề ở thời điểm đó chỉ đủ trang trải cuộc sống. Đến năm 2010, nhận thấy thị trường bắt đầu ưa chuộng cá Koi vì có màu sắc đẹp và quan niệm mang lại may mắn cho người nuôi, ông Câu đánh liều vay 150 triệu đồng để nhập 16 con cá Koi đủ màu sắc thuộc nhiều dòng khác nhau về nuôi sinh sản.
Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm nên những lứa cá con ươm giống ban đầu chết hoàn toàn, còn cá mẹ đẻ xong cũng chết vài con. Không nản chí, ông Câu tìm đến những trại cá Koi lớn ở Nam Định, Tiền Giang… để học hỏi cách nuôi loài cá này. Đồng thời, ông lên mạng internet để học hỏi cách nuôi loài cá Koi sao cho hiệu quả, dần dần những lứa cá sau thu được kết quả tốt. “Để nuôi được cá có vẻ đẹp tự nhiên, tuổi thọ cao thì thức ăn, chế độ dinh dưỡng, môi trường sống là yếu tố quyết định. Đồng thời hồ phải rộng, độ sâu từ 0,8 đến 1,5m, nước trong, sạch, rong, tảo không quá nhiều”, ông Câu cho biết.
Sau một thời gian nuôi và sản xuất cá giống, ông Câu nhận thấy lượng cá sinh sản không đủ. Mỗi lứa cá giống chỉ lựa được 30% số cá đủ tiêu chuẩn để nuôi, còn lại phải thải bỏ. Năm 2023, ông Câu kết hợp với các hộ nuôi cá trong vùng bằng cách ông cung cấp giống cá và các hộ liên kết chịu trách nhiệm chăm sóc và tới thời điểm thu hoạch, ông sẽ mua lại. Nhờ đó thu về hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Ông Nguyễn Ngọc Xảo, thôn Phú Sơn 2, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang cũng là một trong những hộ nuôi cá đang liên kết với ông Câu chia sẻ: “Tôi đang hợp tác với anh Câu nuôi xen cá Koi với cá khác trên với diện tích 1,5ha. Một con cá Koi phát triển tốt cần phải 2-3 khối nước để sinh sống, tuy nhiên, cùng một khối nuôi đó lại có thể nuôi xen các loại cá trắm cỏ, cá mè… Vì cá Koi ăn ở tầng đáy nên có thể tận dụng được nguồn thức ăn của các loại cá trên. Trừ chi phí sản xuất, thu nhập từ việc hợp tác nuôi cá với ông Câu trung bình 60-80 triệu đồng/năm”.
Để nhiều người biết đến thương hiệu cá Koi của mình, ông Câu lập các trang trên mạng xã hội như Facebook, Zalo…để giới thiệu các loại cá Koi của mình. Riêng tại Đà Nẵng, trại cá Koi của ông Câu có thể xem là mô hình cá Koi duy nhất. Từ năm 2023, ông Câu chỉ hợp tác nuôi với các hộ dân khoảng 1.000 con cá Koi, sau 3 năm đã gấp 10 lần số cá đó. Tuy nhiên, để chuyển môi trường sống từ ao qua hồ cá thì chỉ có 60-70% số cá chịu được vì những lý do khác nhau như sốc nước, sốc nhiệt…
Ông Trần Văn Mười, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Khương nhận xét, mô hình nuôi cá Koi của ông Câu đã mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình ông và các hộ liên kết với ông. Từ chỗ là hộ nghèo của xã, nay ông đã có một trại cá cảnh khang trang trên đường quốc lộ 14B, có điều kiện cho các con ăn học đến nơi đến chốn.
Bài và ảnh: MAI QUẾ
Nam Định: Thức Ăn Thủy Sản Greenfeed Mang Lại Hiệu Quả Kinh Tế Cho Mô Hình Nuôi Cá Trắm Đen
Nam Định: Thức ăn thủy sản GreenFeed mang lại hiệu quả kinh tế cho mô hình nuôi cá trắm đen
Xã Bạch Long là một trong những địa phương dẫn đầu huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định về sản lượng nuôi trồng thủy sản. Nhờ có hướng đi đúng đắn và tinh thần vượt khó vươn lên đã giúp nhiều hộ dân có cuộc sống khá giả hơn từ mô hình kinh tế nuôi cá trắm đen.
Để nuôi cá trắm đen đạt hiệu quả bền vững cần đổi mới phương pháp nuôi, đặc biệt là nguồn thức ăn cho cá. Theo khuyến cáo của trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Nam Định (Sở NN & PTNT), các hộ nuôi đã áp dụng giải pháp “Nuôi cá trắm đen sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế thức ăn tươi sống”. Mục đích của giải pháp này nhằm thay đổi tập tính của loài cá trắm đen từ một loài chỉ sống ở tầng đáy và ưa thích ăn ốc, dắt biển sang sống ở tầng mặt và ăn thức ăn công nghiệp, qua đó chủ động nguồn thức ăn cho cá, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hạn chế dịch bệnh, tăng năng suất và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích nuôi.
Là một trong những hộ tham gia nhận khoán nuôi thủy sản trên vùng quy hoạch thủy sản của xã, trước kia là nông trường Cói Bạch Long, ao cá của anh Nguyễn Văn Minh có diện tích khoảng 3.500 m2, mật độ nuôi 0,35 con/m2, anh nuôi phần lớn là cá trắm đen, kết hợp thả ghép thêm cá trắm cỏ, cá đối, cá chép nhằm tận dụng nhiều tầng mặt nước và tạo thuận lợi trong việc quản lý môi trường ao nuôi. Anh cho biết, cá trắm đen là loài dễ nuôi, thịt chắc ngọt, có giá trị kinh tế cao và được thị trường ưa chuộng.
Quang cảnh thương lái thu mua cá nhộn nhịp tại trại của anh Minh
Để đàn cá phát huy tối đa năng suất và đảm bảo sức khỏe, anh Minh sử dụng thức ăn thủy sản 6136 của công ty GreenFeed. Vào giữa tháng 10, anh đã xuất bán gần 6,5 tấn cá các loại. Trong đó, riêng cá trắm đen loại 1, được thương lái mua với giá 117.000 đồng/kg. Kết quả hạch toán vụ nuôi, sau khi đã trừ các khoản phí về giống, thức ăn, thuốc thú y, điện nước, nhân công… anh Minh thu lãi trên 180 triệu đồng. Từ kết quả thu được, anh cảm thấy rất phấn khởi và đánh giá hài lòng về chất lượng thức ăn của công ty, anh sẽ tiếp tục sử dụng cho các vụ cá kế tiếp.
Xem video chi tiết (Người thực hiện: Trịnh Xuân Vĩnh – GreenFeed Hà Nam)
Hiệu Quả Mô Hình Nuôi Cá Hô Công Nghiệp
Gần đây, nghề đánh bắt cá hô tự nhiên dần đi vào “ngõ cụt”. Đó là lẽ tự nhiên khi con cá hô bị đánh bắt một cách vô tội vạ và loài cá quý hiếm của dòng Mê Công này đang được xếp vào loài có nguy cơ tuyệt chủng. Việc nuôi cá hô bằng mô hình công nghiệp không chỉ bảo tồn, phát triển loài cá hô mà còn là mô hình kinh tế khá thành công tại An Giang… * Thành công bước đầu
Với việc Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II ở Cái Bè (Tiền Giang) nghiên cứu, lai tạo thành công loài cá hô quý hiếm năm 2006 đã mở ra một tương lai cho việc bảo tồn phát triển cá hô lưu vực sông Mê Công. Công ty cổ phần Nông ngư Quốc tế IFACO (An Giang) đã mạnh dạn làm cầu nối giữa trung tâm với một số nông dân tâm huyết với con cá hô tìm mua nguồn cá giống, bắt đầu thí điểm mô hình nuôi cá hô công nghiệp trong dân đầu tiên tại Việt Nam.
Người đầu tàu thí điểm mô hình nuôi cá hô công nghiệp là anh Lê Thành Nam ngụ tại ấp Bình Thủy, xã Bình Mỹ, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Anh Nam cho biết: “Giữa năm 2008, tôi nghe thông tin một số nông dân ở Hậu Giang đã bắt đầu nuôi cá hô trong ao hầm đang phát triển khá. Vốn đam mê con cá hô từ nhỏ, lại sống tại vùng đất là cái nôi nghề đánh bắt cá hô truyền thống, tôi dò hỏi anh Chinh bên Hiệp hội Nghề cá nhờ sự hỗ trợ nhiệt tình từ việc tìm con giống, hướng dẫn một số kỹ thuật cơ bản rồi bắt đầu thả nuôi cá hô ao hầm đến nay được hơn 3 tháng”.
Cá hô giống đang thuần dưỡng chuẩn bị thả nuôi ở An Giang.
Cùng với hộ anh Nam, hiện Công ty IFACO còn thí điểm song song mô hình nuôi cá hô công nghiệp xen cá rô phi và nuôi trên bè ở hai hộ ông Thái Văn Hưởng ở phường Bình Khánh và ông Lê Chí Bình ở xã Mỹ Khánh (thành phố Long Xuyên) với số lượng 500 con/hộ, mật độ 5m2/con cũng đang phát triển rất tốt.
* Thị trường ổn định
Từ những thành công bước đầu, anh Nam hồ hởi nói: “Với lợi thế kinh nghiệm nuôi cá ao hầm hàng chục năm, cùng với việc cá hô đang phát triển rất tốt như hiện tại, tôi tin chắc rằng chỉ sau 2-3 năm thả nuôi, lượng cá hô đang thả này sẽ mang về bạc tỉ. Nếu vụ cá hô lần này thành công, tôi sẽ đẩy mạnh việc phát triển ao nuôi, số lượng cá thả, hướng đến một mô hình nuôi cá hô công nghiệp với qui mô lớn”. Tuy nhiên, hiện anh Nam cũng rất băn khoăn khi nguồn cá hô giống giá quá cao, chỉ duy nhất một nhà cung cấp, những bệnh dịch sau 3 tháng nuôi chưa xuất hiện nhưng cách phòng tránh bệnh dịch vẫn chưa được phòng bị hiệu quả đã và đang là nỗi lo lớn nhất đối với anh.
Cá hô là loài cá lớn nhất thuộc họ cá chép có tên khoa học là Catlocarpio siamensis. Cá từ 5 đến 6 tuổi mới trưởng thành và nặng trung bình 10kg. Ở môi trường tự nhiên, cá nặng trên 100kg. Nếu nuôi theo mô hình công nghiệp, theo đúng quy trình, mỗi năm cá tăng trọng từ 2-3kg. Hiện cá hô vẫn đang là loài cá quý hiếm sống nhiều lưu vực sông Mê Công, nằm trong sách Đỏ thế giới.
Trao đổi với chúng tôi, ông Châu Minh Chinh, Trưởng phòng Tư vấn – Kỹ thuật – Thương mại Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản An Giang (AFA), Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông ngư Quốc tế IFACO, cho biết: “Đây là loài cá quý hiếm có giá trị thương phẩm cao. Giá cá hô trên thị trường hiện từ 160.000 đến 180.000 đồng/kg nhưng không đủ nguồn cung, lại thích hợp với nguồn nước ngọt và thổ nhưỡng Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, công ty đang tích cực phối hợp với Trung tâm chuyển giao con giống, cung cấp các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật phòng trị bệnh, cung cấp nguồn thức ăn tốt nhất… cho những hộ nuôi thí điểm, nhằm tìm một hướng phát triển bền vững vừa bảo tồn được nguồn gien quý, vừa tạo mô hình chăn nuôi hiệu quả”. Ông Chinh còn cho biết thêm, nếu 3 mô hình thí điểm trên đạt thành công, chúng tôi sẽ đẩy mạnh việc phối hợp Trung tâm cung ứng từ 10.000 đến 20.000 con giống/tháng, loại 20 con/kg với giá cả phù hợp nhằm nhân rộng mô hình.
Theo thạc sĩ Thi Thanh Vinh, Chủ nhiệm Chương trình “Bảo tồn nguồn gien cá nước ngọt”, Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ, sau 3 năm sưu tầm lai tạo thuần chủng cá đến nay, Trung tâm đang có 40 con cá hô bố mẹ; lai tạo thành công gần 10.000 thế hệ cá hô bột F1 phục vụ các mô hình nuôi thí điểm. Hướng đến Trung tâm sẽ cung cấp lượng giống cá con dồi dào, cung cấp đại trà với giá cả phù hợp để con cá hô chính thức được bảo tồn.
Bài, ảnh: NGUYỄN HUỲNH
Cập nhật thông tin chi tiết về Hiệu Quả Kinh Tế Của Mô Hình Cá Mú Đìa trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!