Bạn đang xem bài viết Để Nuôi Cá Mè Hôi Trong Ao Đất Đạt Hiệu Quả được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tham quan thực tế ao nuôi của hộ ông Tùng.
Điểm trình diễn nuôi cá mè hôi trong ao đất được thực hiện tại hộ gia đình ông Ngô Bá Tùng (ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng, TP. Long Xuyên). Với ao nuôi 300m2, số lượng cá mè hôi giống được thả là 600 con, bình quân trọng lượng 40 con/kg. Đến nay, sau 5 tháng nuôi, trọng lượng cá tăng đáng kể, cá lớn nhanh, đạt trung bình 9-10 con/kg.
Ông Tùng cho biết: Từ khi được Trung tâm Khuyến nông tỉnh chuyển con giống nuôi đến nay, cá sinh trưởng, phát triển tốt, chỉ hao hụt một số con do bị sây sát khi vận chuyển. Nuôi cá mè hôi khá đơn giản, cho ăn 2 lần/ngày. Ban ngày, cá thường ăn mồi chìm, bỏ vào sàn đựng thức ăn rồi hạ xuống dưới mặt nước, cá tự động tìm đến ăn. Về đêm, cá ngoi lên ăn mồi nổi. Để nguồn nước sạch không ô nhiễm, tôi thường thay nước mỗi tuần 2-3 lần; bổ sung vitamin C và men tiêu hóa để tăng đề kháng cho cá.
Theo ông Nguyễn Hoàng Linh, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông An Giang, thời gian qua, Trung tâm thực hiện nhiều mô hình nuôi cá đặc sản như: Cá ét, trạch lấu, lươn, mè hôi… Trong quá trình nuôi cá mè hôi, cần chú ý lựa chọn con giống khỏe mạnh, màu sắc sáng đẹp, không bị trầy da, mật độ nuôi phải thông thoáng. Ngoài ra, khi cho cá ăn, chú trọng đúng liều lượng, khẩu phần ăn thích hợp cho từng giai đoạn. Tránh thức ăn dư thừa dễ phát sinh bệnh và gây ô nhiễm môi trường nước.
Trước khi nuôi cần chú ý làm sạch đáy ao, bờ ao và diệt tạp thật kỹ do lâu ngày tích tụ chất thải của cá cũng như nhiều vi khuẩn gây hại và mầm bệnh khác, bơm cạn nước, nạo vét bớt bùn, bắt cá, lấp hang hốc và tạt khử trùng bằng chlorine. Bón vôi cho ao nuôi nhằm tăng tính hiệu quả khử trùng, đồng thời tạo cân bằng độ pH cũng như giúp các chất hữu cơ được phân hủy trong điều kiện tốt nhất.
Hiện nay, nuôi cá mè hôi được phát triển ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, với hình thức nuôi trong bè hoặc nuôi ao. Đã có quy trình sinh sản nhân tạo thành công loài cá này nên việc phát triển nuôi thương phẩm không còn phụ thuộc nhiều vào nguồn giống ngoài tự nhiên.
Cá mè hôi (Osteochilus melanopleurus) là loài cá thuộc chi cá mè phương nam trong họ cá chép. (vùng ĐBSCL gọi là cá mè hôi)
Cà mè hoa thịt béo ngon, có nhiều chất dinh dưỡng. Theo y học cổ truyền, cá mè hoa tính ôn vị ngọt, có tác dụng bổ tì vị, khoẻ gân cốt, ích thận khí, thích hợp đối với những người phong hàn đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, nhiều đờm, thận suy, gân cốt yếu, lưng khớp đau, tì vị suy hàn, tiêu hoá kém, tứ chi phù.
Trong dân gian thường dùng đầu cá mè hoa để bổ hư, trị chứng tai ù, mắt hoa, phong hàn, đầu đau, cá mè hoa còn có tác dụng hạ huyết áp.
Theo các chuyên gia nông nghiệp, cá mè hoa có thể làm sạch ao hồ, góp phần chống ô nhiễm môi trường nước vì cá mè hoa ăn sinh vật phù du và mùn bã hữu cơ, vi khuẩn là nguồn gốc gây ra mùi hôi thối tại các ao, hồ ở nông thôn.
Hiệu Quả Kinh Tế Từ Mô Hình Nuôi Cá Bông Lau Trong Ao Đất
Cá bông lau là loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, trước nay thường được khai thác chủ yếu trong tự nhiên. Mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất bằng giống nhân tạo được triển khai ở xã An Thạnh Ba huyện Cù Lao Dung đã mở ra hướng mới để khai thác giá trị kinh tế của loài thuỷ sản này.
Tại xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, Dự án “Xây dựng mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất”, do Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Sóc Trăng phối hợp với Trường Cao đẳng kinh tế – kỹ thuật Cần Thơ thực hiện đã triển khai thí điểm tại 3 hộ dân, thả nuôi theo mật độ 2 con/m2 và 1 con/m2. Ao nuôi của hộ anh Lâm Thành Lâm ở ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, một trong 3 điểm triển khai của dự án đã thả nuôi 4.000 con giống trong ao nuôi, với diện tích 2.000 m2. Ao nuôi có trang bị quạt nước tạo dòng chảy và đảm bảo lượng oxy.
Nguồn con giống nhân tạo được cung cấp từ Trung tâm quốc gia giống thuỷ sản nước ngọt Nam bộ, huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang. Con giống được thả nuôi từ cuối tháng 1/2018, kích cỡ dài từ 8 -10cm, sau 11 tháng nuôi, kiểm tra thực tế tại ao, cá đã đạt trọng lượng phổ biến từ 1kg đến 1,2kg/con. Một số ít đạt trọng lượng 1,4 ký đến 1,5 kg/con.
Tại buổi hội thảo đánh giá hiệu quả mô hình, các cán bộ dự án và bà con nông dân ở 2 xã An Thạnh Ba và An Thạnh Nam huyện Cù Lao Dung, đã trao đổi làm rõ tính hiệu quả của mô hình, chia sẻ kỹ thuật chăm sóc khi nuôi cá bông lau trong ao đất. Theo đó, kết quả nổi bật là cá nuôi có tỉ lệ hao hụt ít, dễ chăm sóc, tăng trọng nhanh, giá tiêu thụ trên thị trường đảm bảo hộ nuôi có lãi. Anh Lâm Thành Lâm, ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, cho biết: “Qua kết quả nuôi, tôi thấy loài này dễ chăm sóc, chí phí thức ăn và chi phí khác cho mỗi kg khoảng 60.000đ, giá bán trên thị trường giao động từ 80.000 đến 120.000 thì mỗi kg thu lời từ 20.000 đến 30.000 đồng/kg”.
Ao nuôi cá được trang bị quạt nước tạo dòng chảy và đảm bảo lượng oxy.
Điểm đáng chú ý là trong 7 tháng đầu thả nuôi, nước trong ao có độ mặn từ 2 đến 8 phần ngàn. Đây là điểm khác biệt về môi trường tự nhiên ở An Thanh Ba so với các vùng sinh thái khác, rất phù hợp với đặc tính sinh trưởng của cá bông lau. Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung, Giảng viên Trường cao đẳng kinh tế-kỹ thuật Cần Thơ, Chủ nhiệm dự án cho biết: “Chúng tôi cũng có triển khai mô hình tại huyện Kế Sách toàn nước ngọt thì thấy, tại An Thạnh ba, 2/3 thời gian nuôi là nước lợ thì cá bông lau sinh trưởng tốt, tăng trọng nhanh”.
So với các giống loài thủy sản khác đã từng nuôi ở xã An Thạnh Ba, cá bông lau nuôi trong ao đất được các hộ tham gia mô hình thí điểm đánh giá có triển vọng về hiệu quả kinh tế. Ông Trần Thanh Nhã, ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, hộ tham gia mô hình, nói: “Cá này nuôi 11 tháng thì vô kg, chi phí nuôi khoảng 70.000đ, giá thị trường tiêu thụ khoảng 100 ngàn thì thu lãi mỗi ký 30 ngàn, so cá tra, cá lóc thì nó khá hơn”.
Mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất giúp đa dạng giống loài trong nuôi trồng thủy sản của huyện Cù Lao Dung.
Năm 2023, nông dân Cù Lao Dung đã tăng diện tích nuôi thủy sản lên 3.500 ha; trong đó nuôi tôm 2.750 ha, nuôi các loài thủy sản khác 750 ha. Việc đa dạng giống loài thủy sản phù hợp điều kiện sinh thái, cho hiệu quả kinh tế đang được huyện rất quan tâm. Ông Đồ Văn Thừa, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cù Lao Dung, cho biết: “Việc thí điểm mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất, giúp huyện có thêm lựa chọn về giống loài thủy sản cho nông dân phát triển sản xuất, phù hợp sinh thái vùng”.
Theo bà con nông dân, do là loại cá ngon nên thị trường tiêu thụ cá bông lau rất dễ dàng. Tuy nhiên, sức tiêu thụ chưa lớn, thương lái thu mua nhỏ lẻ, giá bán chưa ổn định, khả năng cho lãi nhưng chưa cao chính là những yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất ở Cù Lao Dung.
Nuôi Cá Bông Lau Trong Ao Đất
Anh Lâm cho biết, năm 2023, anh mua con giống cá bông lau về thả nuôi trong ao lắng cạnh ao tôm. Sau hơn một năm nuôi cho thu hoạch bán được giá cao. Năm 2023, anh bỏ hơn 100 triệu đồng, tận dụng những ao tôm bỏ trống để nuôi cá bông lau.
Theo anh, đây là đối tượng dễ nuôi, có khả năng kháng bệnh rất tốt. Đặc biệt, ở độ mặn cao cá vẫn phát triển, phù hợp với điều kiện vùng giáp biển. Ban đầu anh thả nuôi thử 4.000 con cá giống, trên diện tích 2.000m2 mặt nước. Nhờ có kinh nghiệm nhiều năm trong việc nuôi tôm, nên việc chăm sóc nuôi cá bông lau đối với anh không khó.
Anh Lâm nói, nuôi thủy sản để đạt hiệu quả cao, điều quan trọng trước tiên là chọn con giống chất lượng. Thường xuyên kiểm tra môi trường nước trong ao nuôi, độ mặn đảm bảo ở mức phù hợp. Thức ăn công nghiệp chiếm 85%. Ngoài ra, anh còn cho ăn thêm các loại cá tạp, đầu tôm. Thông thường cho cá ăn một ngày 2 lần, thường vào buổi sáng và buổi chiều.
Sau 13 tháng nuôi, cá bông lau đạt trọng lượng từ 1,2 – 1,3kg/con, vụ đầu tiên thu hoạch đạt trên 5 tấn/2.000m2, bán cho thương lái với giá 100.000 – 120.000 đồng/kg, cao gấp 4-5 lần so với cá tra. Sau khi trừ hết chi phí anh lãi trên 300 triệu đồng. Đặc biệt, cá bông lau nuôi càng lớn bán giá càng cao. Cụ thể cá từ 2kg trở lên bán vào thời điểm gần tết từ 200.000 – 220.000 đồng/kg.
Sau 13 tháng nuôi, cá bông lau đạt trọng lượng từ 1,2-1,3kg/con
Từ thành công đó anh tiếp tục mở rộng vùng nuôi, nâng lên 5 ao nuôi tổng diện tích 5.000m2. Hiện đàn cá bông lau của anh được 5 tháng tuổi, phát triển tốt và rất ít dịch bệnh. Mật độ thả nuôi để cá có tỷ lệ sống cao, bình quân thả 2 con/m2.
Anh Lâm lý giải, đây là loại cá sống ngoài thiên nhiên thích nơi dòng chảy nước sâu, cần oxy cao. Khi nuôi trong môi trường nước tĩnh phải thả thưa cá mới đủ oxy phát triển tốt. Thời điểm cá bông lau tăng trưởng mạnh nhất là từ tháng 7 đến tháng 10 âm lịch. Trong ao nuôi cá bông lau phải có máy sục khí để tạo nguồn oxy liên tục. Lưu ý không gây tiếng ồn, khuấy động ao nuôi để cá không hoảng hốt chạy rồi va chạm vào nhau và bỏ ăn.
Giống cá bông lau được thuần hóa nuôi trong ao có chất lượng thịt thơm ngon và ít mỡ. Để đạt được điều đó, mô hình nuôi tối thiểu phải là bán thiên nhiên trên diện tích rộng. Trong quá trình nuôi không sử dụng thuốc, chất hóa học hay kháng sinh.
“Dự định trong thời gian tới, tôi sẽ xây dựng vùng nguyên liệu và liên kết với một số hộ dân tại địa phương thông qua DN để cung cấp sản phẩm vào siêu thị. Ngoài bán cá tươi sống, tôi còn SX thêm khô cá bông lau để xuất khẩu”, anh Lâm nói.
Ông Đồ Văn Thừa, Phó Trưởng phòng NN-PTNT huyện Cù Lao Dung cho biết: Năm 2023, nông dân trong huyện đã tăng diện tích nuôi thủy sản lên 3.500 ha. Trong đó, nuôi tôm 2.750 ha, các loài thủy sản khác 750 ha. Việc đa dạng giống loài thủy sản phù hợp điều kiện sinh thái, cho hiệu quả kinh tế đang được huyện rất quan tâm.
Mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất sử dụng nguồn con giống nhân tạo được triển khai tại địa phương khoảng 1,4 ha đã góp phần phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản. Đây là loại cá ngon nên thị trường tiêu thụ dễ dàng, người nuôi có lãi cao.
Theo Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, cá bông lau có tên khoa học Pangasius krempfi, là loài cá da trơn thuộc chi cá tra (Pangasius). Loài cá này chủ yếu sống ở lưu vực sông Mekong. Thức ăn của chúng là tảo và động vật giáp xác. Môi trường sống chủ yếu ở nước lợ. Đây là loài di trú, có thời gian sống ở các vùng nước ven biển và một thời gian di cư vào các sông Mekong để sinh sản. Trong những năm qua, loài cá này được các nhà khoa học cho sinh sản nhân tạo, nuôi bằng thức ăn công nghiệp đem lại kết quả tốt.
Kỷ Thuật Nuôi Cá Mú Đen Trong Ao Đất
Chia sẻ nội dung:
Kỷ thuật nuôi cá mú đen trong ao đất
Cá mú hay còn gọi là cá song có thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, là đặc sản được tiêu thụ tại các nhà hàng ở dạng cá sống và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao…
Do tập tính sống trong môi trường có nguồn nước lưu thông thường xuyên nên đa số người nuôi thường thả cá vào lồng, bè treo dưới biển. Với hình thức nuôi lồng, đối tượng này tỏ ra khá thích hợp và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi. Song, hình thức nuôi này khá tốn kém và cá thường xuyên chịu ảnh hưởng của môi trường nước bên ngoài có nhiều biến động do ảnh hưởng xả lủ, áp thấp nhiệt đới, bão, các chất thải tàu khai thác vào neo đậu. Do vậy nuôi cá mú trong ao đất là một niềm hy vọng mới cho bà con ngư dân, vì chi phí đầu tư vừa phải, hệ số thức ăn thấp, cá ít bị bệnh.
: diện tích 500 – 5000 m 2 , cải tạo sên vét bùn đáy, lấp kín hang hốc, nếu có điều kiện trãi bạt càng tốt, tránh cá đào hang quanh bờ.
: đây là loài cá dữ, có thể ăn thịt lẫn nhau khi thiếu mồi, nên thả ở mật độ thưa từ 1 – 3 con/m 2 .
Độ mặn:10 – 23 ‰
Độ trong: 30 – 45 cm
NH3: 0 – 0.008 mg/l
Độ kiềm: 60 – 100 mg/l
Tháng đầu cho ăn 10% trọng lượng thân, cho ăn 3 lần/ngày. Các tháng tiếp theo cho ăn 2 lần/ngày, khẩu phần ăn cho theo nhu cầu bằng cách dùng sàng đặt dưới ao. Hàng ngày kiểm tra sàng 2 lần ngay sau những lần cho ăn nhằm tránh tình trạng thức ăn dư làm ô nhiễm nguồn nước ao.
Khi cá ăn mạnh, định kỳ trộn vitamin C và men tiêu hoá vào thức ăn cho ăn liên tục 5 ngày, sau đó cách 5 ngày cho ăn tiếp.
Trong ao bố trí chà và các ống nhựa có đường kính 10 – 20 cm cho cá trú ẩn, hạn chế cá tấn công nhau gây xây xát nhiễm bệnh cơ hội. Định kỳ thu mẫu bằng cách vớt những ống nhựa lên để kiểm tra sức khoẻ cũng như tốc độ tăng trưởng của cá.
Việc phòng bệnh phải được đặt lên hàng đầu trong nghề nuôi thuỷ sản nói chung và nghề nuôi cá nói riêng, nhất là đối với những loài ăn thức ăn tươi như cá mú. Công việc này phải tiến hành ngay từ đầu để giảm bớt rủi ro trong quá trình nuôi. Cần làm tốt những việc sau:
Ao nuôi phải nằm gần nguồn nước có độ mặn, pH thích hợp cho đối tượng, điều kiện cấp thoát nước dễ dàng. Bên cạnh đó nguồn nước ngọt phải đầy đủ để xử lý cá bệnh khi cần.
Chọn giống khoẻ, đồng cỡ, không xây xát, hoạt động nhanh nhẹn.
Thả nuôi ở mật độ vừa phải, không thả quá dày.
Cá tạp dùng làm thức ăn cho cá phải tươi, rửa sạch bằng nước ngọt. dùng sàng ăn kiểm tra sức ăn của cá, không cho ăn dư sẽ ảnh hưởng đến môi trường ao nuôi.
Định kỳ bổ sung vitamin C, men tiêu hoá vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho cá nuôi.
Thường xuyên thu mẫu kiểm tra tình trạng sức khoẻ cá, xem vây, mang, da, mắt…để kịp thời phát hiện bệnh xử lý ngay.
Bệnh do virus (siêu vi trùng): Nguyên nhân có thể lây truyền mầm bệnh từ bố mẹ. Cá bị sốc bởi các yếu tố môi trường thay đổi đột ngột về pH, độ mặn, các vật chất hữu cơ tăng cao làm mất sức đề kháng, là điều kiện tốt cho mầm bệnh trong cơ thể phát triển.
: Cá bơi xoay tròn và yếu dần, màu sắc thân tối, mang lợt màu, mắt lồi có màu vàng. Bệnh gây chết hàng loạt khi nuôi ở mật độ quá dày, thường thấy ở cá nuôi bè, hiện nay chưa có thuốc đặc trị.
Bệnh ghẻ (lở loét) : tác nhân do vi khuẩn tấn công gây lở loét ở da, vây. Đây là các tác nhân cơ hội gây bệnh cho cá khi sức khoẻ cá bị suy yếu do thiếu sự chăm sóc hay do môi trường biến động lớn.
: Các vây bị thối rữa, xuất huyết dưới da gây lở loét.
– Tắm cá trong nước ngọt 15 – 20 phút, có sục khí.
– Tắm cá bằng dung dịch oxytetracyline 30ppm (30g thuốc cho vào 1.000 lít nước ngọt), có sục khí.
Bệnh do ký sinh trùng: Do các sinh vật tương đối lớn như protozoa, giáp xác, giun, đĩa… chúng ký sinh ở mang, da, mắt gây khó chịu cho cá và làm cá chậm lớn.
Dấu hiệu: Cá tập trung lại gần nơi có nước chảy, cá cọ mình vào vật cứng, da bị tổn thương, mang lợt màu.
– Tắm cá trong dung dịch formol 200mg/l trong 30 – 40 phút, có sục khí.
– Tắm cá trong dung dịch oxy già 150mg/l trong 30 phút, có sục khí.
– Tắm cá trong dung dịch đồng sunfat 0,5mg/l trong 30 phút, có sục khí.
Trường hợp xử lý ngay trong ao để ngâm cần tháo nước bớt, dùng 1/2 liều lượng nêu trên, xử lý trong 1 – 3 giờ, sau đó cấp thêm nước mới, ngày sau thay 30 % nước.
HÌNH ẢNH CÁ MÚ ĐEN THƯƠNG PHẨM
Thu hoạch: Tuỳ theo cỡ giống thả mà thời gian nuôi đến lúc thu hoạch khác nhau từ 6 đến 10 tháng. Khi cá đạt trọng lượng từ 0,6 – 1 kg/con dùng lưới vây thu lần thứ nhất, sau đó tháo cạn nước thu toàn bộ. Nên kéo lưới lúc trời mát để ít ảnh hưởng đến cá, chuẩn bị các dụng cụ như thau, chậu, máy sục khí để bảo đảm chất lượng cá thương phẩm.
VIDEO VỀ CÂN CÁ MÚ ĐEN THƯƠNG PHẨM
Cập nhật thông tin chi tiết về Để Nuôi Cá Mè Hôi Trong Ao Đất Đạt Hiệu Quả trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!