Xu Hướng 3/2023 # Cuộc Di Cư Của Cá Hồi # Top 5 View | Psc.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Cuộc Di Cư Của Cá Hồi # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Cuộc Di Cư Của Cá Hồi được cập nhật mới nhất trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cá Hồi có đặc trưng là loài cá ngược sông để đẻ trứng, chúng sinh ra tại khu vực nước ngọt, di cư ra biển, sau đó quay trở lại vùng nước ngọt để sinh sản. Tuy nhiên, có nhiều con thuộc nhiều loài sống cả đời tại vùng nước ngọt. Hầu hết cá hồi tuân theo mô hình cá di cư bơi ngược dòng sông để sinh sản, giai đoạn này chúng trải qua thời kỳ ăn nhiều nhất và lớn lên trong vùng nước mặn, tuy nhiên, khi trưởng thành chúng trở lại để đẻ trứng trong các dòng suối nước ngọt bản địa để đẻ trứng và cá con phát triển qua nhiều giai đoạn khác biệt.

Cá hồi là một loại cá ngon nổi tiếng, chúng đẻ trứng ở dòng nước ngọt, có con chỉ sống một thời gian ngắn trong dòng sông rồi bơi ra biển sinh sống. Đến khi trưởng thành lại quay trở về dòng sông cũ để đẻ trứng. Ai đã thấy cá hồi nhảy vượt ngược dòng thác để về quê cũ đều kính phục lòng dũng cảm và sức mạnh bản năng của cá hồi.

Biển rộng, sông dài như vậy, biết bao nhiêu dòng sông, làm sao cá hồi có thể nhận ra dòng sông cũ của mình, từ biển cả mênh mông thuộc đường về quê cũ? Đây thật sự là một điều bí ẩn. Chỉ gần đây, các nhà sinh vật học mới áp dụng các phương pháp khoa học để nghiên cứu, tìm câu trả lời.

Một số nhà khoa học nêu thuyết mùi vị. Nhà sinh vật học người Mỹ Hasler, khi còn nhỏ ông đã từng về quê nghỉ, thường đi dạo trên đoạn đường ngan ngát mùi hoa cỏ và rong rêu. Bây giờ mỗi lần thấy mùi đó ông lại nhớ đến ngày thơ ấu. Điều này làm ông liên tưởng đến chuyện quay vòng của cá hồi. Ông bắt tay vào nghiên cứu theo hướng mùi vị.

Nhưng ở ngoài biển cả, chúng định hướng bằng cách gì, để trở về nơi có mùi vị quen thuộc? Điều này cho đến nay vẫn là câu đố chưa có lời giải.

Sự Di Cư Của Cá

Xếp loại

Cá di cư được xếp loại như sau:

Diadromous: cá di chuyển giữa nước ngọt và nước mặn. (tiếng Hy Lạp: ‘Dia’ có nghĩa là “giữa”) Có ba loại cá diadromous:

anadromous là loại cá sống phần lớn ở biển, sinh sản trong vùng nước ngọt (tiếng Hy lạp: ‘Ana’ có nghĩa là “lên trên”)

catadromous là loại cá sống trong nước ngọt, sinh sản trong biển (tiếng Hy Lạp: ‘Cata’ có nghĩa là “xuống dưới”)

amphidromous là loại cá di chuyển giữa nước ngọt và nước mặn trong một phần vòng đời của chúng, nhưng không phải để sinh sản (tiếng Hy Lạp: ‘Amphi’ có nghĩa là “cả hai”)

potamodromous là loại cá chỉ di cư trong nước ngọt. (tiếng Hy Lạp: ‘Potamos’ có nghĩa là “sông”)

oceanodromous là loại cá chỉ di cư trong vùng nước mặn. (tiếng Hy Lạp: ‘Oceanos’ có nghĩa là “đại dương”)

Di cư thẳng đứng trong ngày là một hình thức thường thấy. Nhiều loại sinh vật biển di chuyển lên mặt biển vào ban đêm để tìm thức ăn, sau đó quay trở xuống đáy biển trong thời gian ban ngày.

Các loài

Một trong các loại cá sống ở nước mặn và sinh sản ở nước ngọt nổi tiếng nhất là cá hồi Thái Bình Dương. Chúng đẻ trứng trong các dòng suối nước ngọt nhỏ, đi xuống biển và sống ở đó vài năm, rồi quay về chính các con suối mà chúng được sinh ra để đẻ trứng và chết ngay sau đó. Cá hồi có khả năng lội hàng trăm kilômét lên thượng nguồn, và người ta phải xây các thang cá trong các đập nước để cho cá hồi vượt qua đập. Các ví dụ khác về cá sống nước mặn và sinh sản ở nước ngọt là cá hồi biển, three-spined stickleback, và cá bẹ. Loại cá sống nước ngọt và sinh sản ở nước mặn đáng chú ý nhất là lươn nước ngọt thuộc chi Anguilla. Khi còn là ấu trùng chúng trôi trong biển cả, đôi khi hàng tháng hoặc hàng năm, trước khi di chuyển hàng ngàn cây số trở về các dòng suối gốc của chúng. Một số loài cá biển như cá ngừ di cư từ bắc đến nam và ngược lại hàng năm theo sau sự biến đổi nhiệt độ trong đại dương. Điều này rất quan trọng đối với việc đánh bắt cá. Việc di cư của cá nước ngọt thường ngắn hơn, thường thường là từ hồ đến suối hay ngược lại cho mục đích sinh sản.

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Năng Lượng Mặt Trời Giúp Chặn Đà Suy Giảm Cá Di Cư?

Nhưng năng lượng giúp được gì cho đà suy giảm cá di cư?

Thật ra là rất nhiều. Các con đập thủy điện là một trong những nguyên nhân cốt lõi gây suy giảm cá di cư và tình trạng xây thêm đập là mối đe dọa nghiêm trọng với những loài cá di cư còn lại.

Tuy nhiên, phát triển đập châm ngòi cho sự đánh đổi đầy khó khăn giữa năng lượng và an ninh lương thực. Càng thách thức hơn khi thang cá – công nghệ ban đầu có mục đích giải quyết sự đánh đổi đó – lại không mấy hiệu quả, nhất là ở các dòng sông nhiệt đới đang được đề xuất giảm thiểu đập.

Hạn chế của các cấu trúc thang cá trong việc giảm thiểu tác động lên cá di cư càng nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến lược đầu tư và lập kế hoạch để tránh được những tác động đó ngay từ đầu.

Có một vài yếu tố buộc cá phải di cư, chẳng hạn nguồn thức ăn theo mùa và đặc biệt là các sinh cảnh đặc hữu để đẻ trứng. Người Mỹ và châu Âu đã quen với những nhu cầu trên của cá di cư và cách chúng chiến đấu với các đập thủy điện: ở những dòng sông khắp các châu lục này, cá hồi từng rất phong phú nhưng nay còn lại không đáng kể do các con đập chặn đường chúng tới nơi đẻ trứng.

Sông Columbia là một ví dụ sinh động về những mâu thuẫn trên cũng như hậu quả của việc đánh đổi. Trước khi có đập, có tới 16 triệu con cá hồi trưởng thành quay về hệ thống sông Columbia mỗi năm. Ngày nay, mỗi năm thủy điện ở lưu vực sông Columbia sản xuất ra 100 tỷ kW (40% sản lượng thủy điện hàng năm của Mỹ) nhưng chỉ còn 2 triệu con cá hồi quay về tương ứng mức giảm gần 90%.

Trước mắt, cá di cư cần những dòng sông chảy tự do từ nơi chúng bắt đầu tới nơi chúng muốn đến. Trên toàn cầu chỉ còn 1/3 các con sông dài còn chảy tự do, đập thủy điện là nguồn gốc lớn nhất phân mảnh các dòng sông này. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến cá di cư giảm mạnh.

Sự đánh đổi giữa phát điện và cá di cư có đến mức khắc nghiệt như thế?

Phần lớn hy vọng giảm được sự đánh đổi được đặt vào các cấu trúc thang cá theo trực giác: nếu một con đập chặn đường cá di cư thì đơn giản là xây dựng một cấu trúc bổ sung (thang cá hoặc thậm chí thang máy) để cá qua được chướng ngại.

Công nghệ thang cá ban đầu dành cho cá hồi vì giới thiết kế không tìm đâu ra được ứng viên tốt hơn để thử nghiệm: cá hồi là loài bơi khỏe, có khả năng nhảy lên khá cao.

Một đánh giá các nghiên cứu bình duyệt về hiệu suất thang cá cho thấy công nghệ này có hiệu quả với cá hơn hẳn các loài khác, với tỷ lệ thành công lên tới 62% khi bơi ngược dòng.

Con số trên khiến người ta có cảm giác đánh đổi cũng hợp lý. Nhưng đặt vào bối cảnh các con sông không chỉ có một đập thủy điện mà thường là hàng chuỗi (cá hồi đỏ phải vượt 12 con đập mới lên được thượng nguồn sông Snake để đẻ trứng) thì tỷ lệ thành công 62% tại mỗi đập sẽ khiến một quần thể cá hồi di cư giảm tiếp 38% số lượng cá thể chỉ sau 2 con đập.

Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ thành công của tất cả các loài cá khi ngược dòng chỉ là 21%. Một quần thể cá di cư sẽ chỉ còn 4% số lượng ban đầu sau khi vượt qua con đập thứ 2.

Đáng chú ý là các cấu trúc thang cá hiện tại được đề xuất nhằm giảm thiểu tác động của đập đến những loài cá không có nhiều điểm chung với cá hồi.

Thêm nữa, trong khi thang cá xây dựng trên các dòng sông cá hồi ở Tây bắc nước Mỹ được thiết kế cho khoảng 10 loài cá đều bơi khỏe thì thang cá ở một dòng sông như Mê Kông lại phải dành cho hàng trăm loài, từ loài nhỏ bằng con chuột như cá linh gió tới loài lớn như cá tra dầu. Có loài bơi giỏi, có loài không, có loài bơi gần mặt nước, có loài bơi gần đáy.

Dù mức độ đa dạng và phức tạp cao như vậy, và gần như không có ví dụ nào trong các dự án hiện tại giải quyết được các thách thức tương tự, thang cá vẫn được coi là giải pháp bù lại ảnh hưởng từ đập tới cá di cư, kể cả con đập Xayabury mới đi vào vận hành năm 2019 và là đập đầu tiên trong số 11 con đập được đề xuất ở hạ Mê Kông.

Trong quá trình xây dựng đập Xayaboury, giới chức Lào khoe một video minh họa cách cá bơi qua thang cá. Hiểu được những thách thức cho cá, Reuters trích lời một quan chức rằng: “Có lẽ… chúng ta nên tập huấn cho cá cách sử dụng thang máy”.

Các chương trình tập huấn cho cá không có gì đáng để học hỏi nhưng 5 năm qua cho thấy các lựa chọn năng lượng thay đổi nhanh đến thế nào: công nghệ năng lượng phát triển đến mức có thể loại bỏ nhu cầu của các nước cố gắng giải quyết vấn đề đánh đổi giữa cá và thủy điện bằng cách sử dụng công nghệ thang cá.

Cuộc cách mạng năng lượng tái tạo (giảm sâu giá thành điện gió và điện mặt trời, công nghệ lưu trữ và quản lý lưới điện tiến bộ nhanh) khiến các nước có thể phát triển hệ thống năng lượng với chi phí thấp và phát thải ít carbon mà vẫn tránh được các con đập thủy điện gây ra nhiều tác động tiêu cực đến các cộng đồng hoặc nguồn tài nguyên thiên nhiên như cá di cư.

Trong khi nhiều con đập được lên kế hoạch ở sông Mê Kông vẫn đang xúc tiến, chưa rõ những con đập này có được đảm bảo tài chính hay không vì dòng đầu tư trong khu vực đang chảy nhanh vào năng lượng gió và mặt trời. Công suất lắp đặt năng lượng mặt trời ở Việt Nam tăng 40 lần, từ mức 134 MW năm 2018 lên 5500 MW năm 2019. Gần đây, Lào đề xuất một dự án điện mặt trời công suất 1.200 MW gồm các tấm pin nổi trên hồ chứa. Đầu tư vào năng lượng mặt trời cũng tăng nhanh ở Campuchia do giá điện thấp kỷ lục ở Đông Nam Á với chỉ với 0,03877 đô la/kWh.

Xu hướng giá và đầu tư vào năng lượng mặt trời góp phần vào quyết định gần đây của Campuchia hoãn 10 năm xây đập Sambor trên sông Mê Kông – một dự án được mô tải là “nơi tệ nhất có thể [ở Mê Kông] để xây dựng một đập lớn” vì ảnh hưởng tiêu cực tới cá di cư.

Ở những lưu vực sông đã có nhiều hệ thống thủy điện, tăng thêm hoặc cải thiện thang cá ở các đập hiện có sẽ mang lại lợi ích cho cá di cư. Tuy nhiên, cải thiện lớn nhất với cá di cư là việc dỡ các con đập già nua, như ở sông Elwha (bang Washington, Mỹ) và đập Vezins trên sông Sélune ở Pháp.

Dòng cá di cư có thể hồi phục nhanh chóng sau khi đập được dỡ bỏ, như cá trích sông tăng từ mức vài nghìn lên vài triệu con chỉ vài năm sau khi đập trên sông Penobscot (bang Maine) được dỡ bỏ. Nếu báo cáo mới được công bố đưa ra triển vọng ảm đạm về cá di cư thì dỡ bỏ đập sẽ khiến bức tranh tươi sáng trở lại.

Trên những dòng sông như Mê Kông, việc giá thành điện gió, điện mặt trời và giá thành lưu trữ giảm đáng kể có tiềm năng khiến cả sông và cá di cư đều được tự do theo dòng nước.

Cá Hồi, Cá Tầm Việt Nam Tìm Hướng Đi Trong Cuộc Cạnh Tranh Mới

Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), hiện nay, cả nước có 25 tỉnh phát triển nuôi cá nước lạnh, sản lượng cá nuôi nhiều nhất là tại các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên, điển hình là Lâm Đồng, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu… Sản lượng nuôi cá nước lạnh từ 95 tấn vào năm 2007 đến năm 2020 ước đạt 3.720 tấn.

Cá nước lạnh đã được nhiều địa phương xem như một trong những đối tượng nuôi quan trọng, góp phần vào khai thác tiềm năng các thủy vực nước lạnh. Việc phát triển trong những năm qua đã đưa Việt Nam vào nhóm 10 nước có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới là Trung Quốc, Nga, Italia, Bulgaria, Iran, Mỹ, Pháp, Việt Nam, Ba Lan và Đức.

Nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng

Ông Trần Đình Luân – Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT) cho biết: Hiện nay, sản phẩm cá nước lạnh của Việt Nam chủ yếu tiêu thụ là cá tươi sống hoặc cấp đông mà chưa qua các chế biến. Một số ít doanh nghiệp xây dựng mô hình khép kín từ sản xuất giống, nuôi thương phẩm, chế biến và xuất khẩu trứng cá tầm và các sản phẩm thịt cá. Thị trường tiêu thụ các sản phẩm cá hồi, cá tầm nuôi trong nước chủ yếu vẫn tập trung tại các thành phố lớn, các thành phố phát triển du lịch như Hà Nội, Lào Cai, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, TP HCM, … Được xem là một mặt hàng tương đối mới, có giá trị cao nên những năm gần đây nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm từ cá hồi, cá tầm nuôi trong nước xu hướng gia tăng.

Tại một số tỉnh có tiềm năng nuôi cá nước lạnh, một số cơ sở nuôi đã tiêu thụ các sản phẩm cá tầm, cá hồi ngay tại địa phương thông qua các kênh phân phối như bán lẻ tại các chợ, bán trong các siêu thị, tại các nhà hàng khách sạn cao cấp hay bán trực tiếp tại trại khi có khách du lịch đến thăm quan mô hình nuôi. Cá thương phẩm bán tại cơ sở nuôi giao động từ 150.000 đến 250.000 đồng/kg tùy thời điểm và khu vực.

Nuôi cá hồi ở Sa Pa

Một số doanh nghiệp cho biết, đầu năm 2020 do ảnh hướng của dịch COVID -19 đã tác động mạnh đến sản xuất, tiêu thụ thủy sản nước lạnh làm cho giá bán cá hồi, cá tầm giảm mạnh khoảng 150.000 – 170.000 đồng/kg (giảm khoảng 40%). Đến nay, sản phẩm thủy sản nước lạnh cơ bản đã tiêu thụ trở lại với giá khoảng 220.000 – 250.000 đồng/kg. Tuy nhiên, các sản phẩm thủy sản nước lạnh hiện nay chủ yếu là hàng tươi sống, các tổ chức, cá nhân chưa mạnh dạn đầu tư cho chế biến các sản phẩm từ cá hồi, cá tầm.

Theo TS Lê Thanh Lựu – Hội Nghề cá Việt Nam: Hiện nay ở các siêu thị đã thấy xuất hiện cá phi lê, cũng như các phụ phẩm lườn bụng, đầu cá hồi đông lạnh. Điều này cũng có nghĩa là thị trường đã có dấu hiệu mở rộng ra đối với một số loại sản phẩm mới khác với sản phẩm truyền thống- cá sống.

Nhu cầu tiêu thụ cá nước lạnh càng ngày càng tăng, nhưng theo TS Lê Thanh Lựu, sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nên Việt Nam vẫn phải nhập khẩu hơn 50% đối với cả nhóm cá hồi lẫn cá tầm. Cá hồi (salmon) nhập nội đông lạnh luôn có giá cao trong siêu thị (320.000-380.000đ/kg), thậm chí cao hơn giá cá hồi vân sống xuất ra từ trang trại (270.000-320.000/kg) nhưng vẫn được người tiêu dùng ưa chuông. Những phụ phẩm của nhóm cá hồi này như đầu, lườn bụng cũng được bày bán tại siêu thị với giá vừa phải (30.000-50.000đ/kg) phù hợp với nhu cầu của khách hàng trung bình ở đô thị. Cạnh tranh giữa hai loài cá hồi này trên thị trường chưa phải là thách thức lớn vì sản lượng cá hồi Việt Nam rất thấp và chỉ mới cung cấp cho các khu du lịch, một số nhà hàng lớn.

“Trong trường hợp cần thiết phải cạnh tranh thì cá hồi Việt Nam sẽ mở ra hướng mới là phải tạo ra các loại sản phẩm ăn liền (cá xông khói lạnh, nóng; ruốc cá hồi, nuôi cá hồi lấy trứng….)” – ông Lựu khuyến nghị.

Trong lúc đó, sản lượng cá tầm năm 2019 của Việt Nam ước tính đạt 2500 tấn. Lượng cá tầm nhập khẩu từ Trung Quốc ước tính 4.500 tấn chiếm khoảng 65% nhu cầu của thị trường, nhưng số cá này nhập bằng con đường tiểu ngạch.

“Giá cá tầm Trung Quốc trên thị trường tới người tiêu dùng chỉ đạt 140.000-160.000đ/kg, trong lúc đó cá tầm nuôi tại Việt Nam giá xuất từ trang trại đã đạt 150.000-170.000 đồng/kg và người tiêu dùng phải trả 200.000-240.000đồng/kg. Rõ ràng cạnh tranh giá cả giữa cá nhập nội và cá sản xuất tại Việt Nam phụ thuộc vào chất lượng, nguồn gốc xuất xứ” – ông Lựu cho biết.

Cá tầm giống

Theo đại diện Hội nghề cá Việt Nam, cá tầm Trung Quốc hiện diện khắp mọi nơi tại các chợ, nhà hàng, siêu thị nhưng với nhãn hiệu cá tầm Việt Nam. Cá tầm Trung Quốc có chất lượng thấp, giá chỉ bằng 60-70% cá tầm nuôi tại Việt Nam là một thách thức lớn/ cạnh tranh khốc liệt đối với cá tầm nuôi tại Việt Nam. “Rõ ràng, cạnh tranh trên thị trường giữa cá tầm nuôi tại Việt Nam và cá tầm nuôi tại Trung Quốc là thách thức lớn đối với các nhà sản xuất tại Việt Nam” – ông Lựu nhấn mạnh.

Cần một chiến lược cho cá nước lạnh

Luật Quy hoạch được Quốc hội thông qua năm 2017 đã bãi bỏ các quy hoạch ngành, quy hoạch đối tượng, trong đó có Quy hoạch phát triển cá nước lạnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Việc bãi bỏ quy hoạch phần nào gây khó khăn cho các địa phương trong quản lý sản xuất; các doanh nghiệp khó khăn trong hoạch định, xây dựng kế hoạch phát triển cá nước lạnh một cách bền vững.

Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến, mặc dù Chính phủ, các Bộ ban ngành trong thời gian gần đây đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ ngành thuỷ sản trong đó có cá nước lạnh tuy nhiên, các cơ sở sản xuất cá nước lạnh chưa được hưởng các chính sách ưu đãi từ các chính sách trên. Phần lớn các cơ sở phải nhập khẩu trứng cá thụ tinh về để ương thành cá giống làm cho giá thành sản phẩm tăng cao, khó cạnh tranh với cá nhập khẩu.

Nuôi cá tầm trên hồ Đa Mi (Bình Thuận)

Trong nuôi cá nước lạnh, thức ăn chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm nhưng có đến 50% thức ăn cho nuôi cá hồi được nhập khẩu với giá thành cao. Chi phí đầu tư cho các cơ sở nuôi cá nước lạnh là rất lớn, giá bán sản phẩm chưa ổn định, khó cạnh tranh với cá nước lạnh nhập khẩu từ Trung Quốc, đặc biệt tại các tỉnh khu vực phía Bắc.

Ở khía cạnh khác, theo ông Trần Đình Luân – Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, việc khai thác và sử dụng nguồn nước lạnh chưa phát huy hết tiềm năng, hiệu quả, vẫn còn tình trạng sử dụng nguồn nước lạnh lãng phí nhất là các cơ sở nuôi ở vị trí đầu nguồn nên còn tình trạng xảy ra tranh chấp về nguồn nước trong mùa khô. Với hệ thống nuôi như hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước tự nhiên đặc biệt các tỉnh Tây Bắc từ tháng 1 đến tháng 4 hàng năm là mùa khô, không đảm bảo nguồn nước cung cấp cho các cơ sở nuôi nên không nâng cao được năng suất. Trong vài năm gần đây, mưa lũ đã gây thiệt hại rất lớn cho các cơ sở nuôi cá nước lạnh.

Về “dài hơi” với ngành nuôi cá nước lạnh, cần tiếp tục có được sự đầu tư về công nghệ sản xuất giống; hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn cho cá nước lạnh trong nước; áp dụng các mô hình nuôi cá nước lạnh ứng dụng công nghệ cao./.

Cập nhật thông tin chi tiết về Cuộc Di Cư Của Cá Hồi trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!