Xu Hướng 12/2023 # Bật Mí Kỹ Thuật Nuôi Cá Chình Thương Phẩm Mau Lớn Cho Năng Suất Cao # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bật Mí Kỹ Thuật Nuôi Cá Chình Thương Phẩm Mau Lớn Cho Năng Suất Cao được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Psc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cá chình là một trong những loài thủy sản phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu tại Việt Nam, đem lại giá trị kinh tế cao cho bà con nông dân. Do vậy, nếu nắm vững được kỹ thuật nuôi cá chình, người nông dân không chỉ giảm bớt được công sức đáng kể mà còn tiết kiệm được thời gian và chi phí chăn nuôi.

Hé lộ kỹ thuật nuôi cá chình thương phẩm theo chia sẻ từ chuyên gia Mô hình nuôi cá chình

Cá chình là loài cá dễ nuôi và thích nghi tốt với các môi trường sống khác nhau. Bà con có thể nuôi cá trong bể xi măng, ao đất hoặc nuôi trong lồng bè đều được. Tùy vào điều kiện thực tế và chi phí để quyết định ra mô hình chăn nuôi phù hợp nhất với hộ gia đình mình.

Chuẩn bị môi trường nuôi cá chình

Nếu lựa chọn nuôi trong lồng bè, bà con chỉ cần vệ sinh, cọ rửa sạch lồng và gia cố lại trước khi thả cá giống.

Nếu nuôi cá trong ao đất, bà con cần tát cạn ao, dọn dẹp, phát quang bờ ao, nạo vét đáy ao và rắc vôi bột. Sau đó phơi ao từ 3 -5 ngày trước khi tiến hành cấp nước để nuôi cá.

Nếu nuôi cá trong bể xi măng, cần tiến hành cọ rửa thật kĩ bể, sát trùng và ngâm bể rồi mới tiến hành cấp nước sạch để nuôi cá.

Chọn và thả cá chình giống

Một trong những yếu tố cần chú ý trong kỹ thuật nuôi cá chình để quyết định sự thành công của mùa vụ chính là chọn cá giống. Bà con cần chú ý lựa chọn mua cá giống tại các cơ sở cung cấp con giống uy tín. Lựa chọn đàn cá khỏe mạnh, có kích thước đồng đều và nên chọn loại có kích cỡ 10 con/kg để nuôi.

Những con cá giống chất lượng cần có nhiều nhớt, không bị trầy xước, tróc vẩy và không bị nhiễm bệnh. Tuyệt đối không nên lựa chọn con cá bị dị dạng để nuôi, vì rất dễ lẫn cá do đánh bắt bằng điện hoặc đi câu.

Thức ăn cho cá chình

Bà con có thể tận dụng nguồn thức ăn tươi từ tự nhiên hoặc trong sản xuất nông nghiệp để nuôi cá chình hoặc sử dụng cám công nghiệp đều được. Tuy nhiên, cần đảm bảo khẩu phần và hàm lượng dinh dưỡng trong thức ăn cho cá với lượng đạm dao động khoảng 45%.

Có thể cho ăn thêm thức ăn tươi sống như: cá tạp, trai, hến… nhưng cần sơ chế kĩ và đảm bảo không bị ôi thiu.

Chăm sóc và quản lý cá chình

Tiến hành cho ăn đúng giờ, đủ lượng và chia khoảng 2 – 3 bữa ăn. Tổng lượng thức ăn dao động từ 10 – 20% trọng lượng cá.

Căn cứ vào tình hình thời tiết thực tế để điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp lý.

Thường xuyên theo dõi trạng thái cá bơi lội và bắt mồi để có biện pháp xử lý kịp thời nếu xảy ra sự cố phát sinh.

Tiến hành vớt hết thức ăn dư thừa, tránh làm bẩn nước nuôi cá khiến cá dễ mắc bệnh.

Thu hoạch cá chình

Bà con có thể tiến hành thu hoạch cá sau 1 năm nuôi khi cá chình đạt kích cỡ từ 1 – 1,5 kg/con.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Rô Phi Đơn Tính Thương Phẩm Năng Suất Cao!

Trong những năm gần đây, mô hình nuôi cá rô phi đơn tính đực được triển khai tại nhiều địa phương trên cả nước. Đây là loại cá thương phẩm được thị trường ưa chuộng và có đầu ra ổn định. Tuy nhiên để nuôi rô phi thành công thì bà con cần tuân thủ quy trình kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính sau đây.

Kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính Chuẩn bị ao nuôi:

Cải tạo ao nuôi: Việc cải tạo ao nuôi gồm các bước sau:

+ Tiến hành tháo cạn nước trong ao, bắt hết cá tạp, cá dữ, dọn sạch bèo, rác, cỏ. Tu sửa bờ ao và lấp kín các hang hốc là nơi trú ẩn của dịch hại.

+ Nếu đáy ao có bùn quá dày phải nạo vét bớt, chỉ để lại lớp bùn dày khoảng 15 – 20cm.

+ Bón vôi: Lượng vôi bột sử dụng khoảng 7-10 kg/100 m2 ao, ở vùng đất chua có thể tăng lên 15-20 kg/100 m2 ao. Vôi được vãi đều khắp đáy ao và xung quanh bờ ao, sau đó đảo đều để tăng tác dụng của vôi.

+ Phơi đáy ao: Phơi đáy ao khoảng 5 – 7 ngày, đến khi mặt lớp bùn nứt chân chim để tạo cho đáy ao thêm thoáng khí. Tuy nhiên ở vùng đất chua phèn không nên phơi đáy ao nhiều vì dễ làm xì phèn làm giảm pH đáy.

Chuẩn bị lấy nước trước khi thả:

+ Sau khi phơi đáy ao xong, cần bón lót phân để gây nuôi thức ăn tự nhiên cho cá. Liều lượng phân sử dụng như sau: 25 – 30kg phân hữu cơ (đã ủ mục với vôi) cho 100 m2 ao, đồng thời kết hợp phân xanh 10-15 kg/100m2. Cũng có thể kết hợp giữa phân hữu cơ với phân vô cơ, lượng phân vô cơ là 0,3 – 0,5kg/100m2 (dùng phân urê + phân lân theo tỷ lệ 2N:1P) kết hợp với 10 – 15kg phân chuồng.

+ Sau khi bón lót, tiến hành lấy nước vào ao. Tùy theo nguồn nước và mức độ dinh dưỡng, ta có thể lấy nước theo 2 cách:

* Cách 1: Lấy lượng 50 – 70cm nước rồi bón phân gây màu. sau đó mới lấy đủ nước vào.

* Cách 2: Lấy đủ nước vào ao sau đó mới bón phân gây màu

+ Bón phân gây màu nước: Phân hữu cơ 30 – 50kg/100m2 ao đã được ủ kĩ với 1 – 2% vôi. Phân xanh 30 – 50kg/100m2 ao.

Đối với ao khó gây màu có thể sử dụng thêm NPK với tỷ lệ 3:2:1, lượng dùng từ 0,3 -0,5kg/100m2.

+ Sau khi bón phân để khoảng 5-7ngày, đến khi nước có màu xanh nõn chuối thì ta có thể lấy thêm nước cho đủ và tiến hành thả giống

Các tiêu chuẩn môi trường trước khi thả giống:

+ Nhiệt độ: thích hợp nhất cho cá phát triển là 25 – 32 độ C

+ Độ mặn: 0 – 25%

+ pH: thích hợp cho cá phát triển từ 6.5 – 8.5

+ Oxy hoà. tan: Cá rô phi có thể sống trong hàm lượng ôxy thấp tới 1 mg/l và ngưỡng ôxy chết cá là 0,3-0,1 mg/l. Tuy nhiên, nếu hàm lượng ôxy hòa tan trong nước thấp kéo dài sẽ làm cá chậm lớn rõ rệt.

+ NH3: Ammonia rất độc cho cá nhưng cá rô phi có thể chịu đựng ammonia tốt hơn các loài cá khác dưới 20 mg/l.

Chọn và thả giống cá rô phi:

+ Chọn cá giống có ngoại hình cân dối, màu sắc tươi sáng, cá khỏe mạnh, bơi lội hoạt bát, phản ứng nhanh với tiếng động, không xây xát. vây vẩy hoàn chỉnh, không mất nhớt, không dị hình, không mầm bệnh, đồng đều kích cỡ.

+ Cá giống trước khi thả phải qua kiểm dịch sạch bệnh.

+ Mùa vụ thả cá rô phi đơn tính thường từ tháng 3-8

+ Kích cỡ giống: Cá giống phải đồng đều đảm bảo kích cỡ để khi nuôi đỡ bị hao hụt, kích cỡ: 6-8 cm.

+ Mật độ thả: 2-5 con/m2

+ Phương pháp thả: Cần cân bằng nhiệt độ và độ mặn trước khi thả giống. Trước khi thả cá ta phải để bao, túi chứa cá xuống ao lừ 15 – 20 phút. Sau đó thêm từ từ nước ao nuôi vào bao chứa cá, độ 5-10 phút cho cá quen dần với môi trường ao nuôi rồi dìm miệng túi xuống ao cho cá tự bơi ra. Nên thả cá giống vào buổi sáng hoặc chiều mát. Tránh thả cá vào buổi trưa hoặc lúc trời nắng gay gắt, cá thả sẽ bị hao hụt.

Thức ăn cho cá rô phi và cách cho ăn: *Thức ăn cho cá:

Có 2 loại thức ăn phổ biến

+ Thức ăn chế biến. Nơi không có điều kiện sử dụng thức ăn viên công nghiệp hoặc có sẵn nguyên liệu chế biến, gồm các nguyên liệu:

Cám: 20 – 30%

Tấm: 20 -30%

Rau xanh (nghiền nhỏ): 10 – 20%

Bột cá (bột ruốc): 30 – 35%

Bột đậu nành: 10 – 20%

Premix khoáng/ vitamin: 1 – 2%

Phối trộn các nguyên liệu để đạt hàm lượng Protein 20 – 40%, trộn đều các nguyên liệu đã nghiền nhỏ, nấu chín rồi ép viên bằng máy ép cám viên nổi 3A15Kw hoặc rải mỏng và phơi se mặt, sau đó cho cá ăn (rải một chỗ hoặc để vào sàn ăn).

Mời bà con theo dõi video sản xuất cám viên nổi với máy ép cám nổi 3A15Kw

+ Đối với thức ăn công nghiệp: Là thức ăn dạng viên nổi không tan trong nước. Giai đoạn đầu sử dụng thức ăn cao đạm (30 – 40 %), khi cá lớn (trên 300g/con) cho ăn thức ăn thấp đạm (20 – 25%).

*Cách cho ăn:

Quản lý, sức khỏe và các biện pháp nhằm tăng cường sức khỏe của cá khi thời tiết có diễn biến xấu:

+ Quan sát tình trạng hoạt động cá nuôi vào hai thời điểm sáng 4 – 6 giờ, chiều 14 – 16 giờ, phát hiện sớm những biểu hiện bất thường của cá như: Cá kém ăn hoặc bỏ ăn, bơi lờ đờ trên tầng mặt; da cá màu tối mất nhớt, trên thân cá xuất hiện các đốm đỏ, mang xuất huyết và tái xám, dính bùn, mắt lồi, hậu môn sưng đỏ…

+ Trong giai đoạn chuyển mùa, thời tiết thay đổi đột ngột dễ làm cho cá bị stress, tác nhân gây bệnh có điều kiện phát triển và xâm nhập vào vật nuôi. Để tăng cường sức khỏe cho cá bổ sung vitamin C trộn vào thức ăn cho cá với liều dùng thường xuyên cho cá 20-30mg/ 1kg cá /1 ngày, cho ăn liên tục 7-10 ngày.

Quản lý ao nuôi cá:

+ Theo dõi các yếu tố chất lượng nước (như ôxy hòa tan, pH, H2S…) và sự thay đổi đột ngột của môi trường để có biện pháp xử lý kịp thời:

Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển của cá:

Yếu tố

Mô tả

Khoảng thích hợp

Biểu hiện khi điều kiện xấu

Chú thích

Oxy hòa tan

(mg/lít)

Hàm lượng oxy trong nước

Lớn hơn 4

Cá nổi đầu ngớp khí trên mặt nước.

Cá chậm lớn

Nhiệt độ

(°C)

Nước nóng hay lạnh

25 – 32

Nước quá nóng cá sẽ nổi lên tầng mặt

Nhiệt độ cao dẫn đến thiếu oxy

pH

Chỉ mức độ phèn hoặc độ kiềm của nước

6 – 9

Nước bị phèn, phiêu sinh vật (tảo…) không phát triển

pH thấp làm tăng tính độc của kim loại như Kẽm, Đồng và Nhôm. pH cao làm tăng tính độc của khí NH3

Độ kiềm

(mgCaCO3/lít)

Chỉ khả năng hạ phèn của nước

25 – 250

Phiêu sinh vật phát triển kém, độ kiềm sẽ thấp

pH biến động lớn khi độ kiềm thấp

Khí độc NH3 (mg/lít)

Dạng độc của chất đạm trong nước

0,02

Cá chậm lớn

pH và nhiệt độ cao làm tăng tính độc của NH3

Nitrite

(mg/lít)

Một dạng độc khác của chất đạm trong nước

Nhỏ hơn 0,1

Cá chậm lớn

Hàm lượng Nitrite cao gây bệnh máu nâu

H2S (mg/lít)

Sinh ra ở đáy ao trong điều kiện thiếu oxy

Nhỏ hơn 0.0001

Nước có mùi trứng thối, cá chết hoặc chậm lớn.

Gây độc cho tất cả động vật thủy sinh

+ Tăng cường thay nước mới vào ao nuôi, định kỳ 01 tuần/lần, mỗi lần thay 1/3 – 1/2 lượng nước trong ao.

+ Bơm nước vào thời điểm từ 4 – 6 giờ sáng, đối với những ao có hiện tượng cá nổi đầu, để tăng ôxy hòa tan vào nước.

+ Vôi bột (CaCO3) bón định kỳ cho ao nuôi 10 ngày/lần, liều lượng 1-2 kg/100m2 để ổn định độ pH và diệt khuẩn.

+ Có thể định kỳ dùng một số thuốc sát trùng có tính ôxy hóa cao để khử một lượng khí độc sản sinh ra trong ao nuôi (Iodine, BKC, H2O2 …)

+ Sử dụng các chế phẩm sinh học để cải thiện chất lượng nước trong ao. Dùng định kỳ 10 ngày/lần hoặc khi thấy nước trong ao bẩn, ô nhiễm.

+ Hàng ngày kiểm tra bờ ao, cong, mương để phát hiện và kịp thời sửa chữa những chỗ hư hỏng.

Phòng và trị bệnh cho cá rô phi: Biện pháp phòng bệnh tổng quát cho cá:

+ Chọn con giống khỏe mạnh không mang mầm bệnh.

+ Nguồn nước cấp sạch không bị ô nhiễm.

+ Sử dụng thức ăn không mang mầm bệnh: Không dùng các loại thức ăn đã bị nấm mốc, kém chất lượng, hoặc các loại thực vật lấy ở vùng nước có nguy cơ nhiễm bệnh cao…

+ Ngăn chặn sự xâm nhập và tiêu diệt các sinh vật là ký chủ trung gian, là các sinh vật mang tác nhân gây bệnh như: các loại cá tạp, ốc, chim bói cá…

+ Tiêu diệt các tác nhân gây bệnh có sẵn ở trong ao nuôi trong công tác lấy dọn ao nuôi trước khi thả cá

+ Trong quá trình nuôi việc quán lý các yếu tố môi trường thích hợp và ổn định hết sức quan trọng.

Một số bệnh thường gặp:

* Bệnh xuất huyết:

– Dấu hiệu bệnh lý:

Hôn mê, mất phương hướng, cỏ thể tổn thương mắt: Viêm mắt, lồi mắt, chảy máu mắt, có các vết áp-xe (có thể có mủ).

Xuất huyết ở quanh miệng, gốc vây hoặc quanh hậu môn, lỗ sinh dục

Giai đoạn nặng, trong bụng cá có dịch (chảy ra hậu môn). Không co thức ăn trong dạ dày (cá bỏ ăn). Bệnh có thể lây cho người khi chế biến cá không vệ sinh.

– Tác nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Streptococcus thường tấn công vào hệ thống thần kinh trung ương nên cá bị bệnh có biểu hiện (bên ngoài).

– Phòng trị bệnh:

Bón vôi (CaO hoặc CaCO3), tùy theo pH môi trường, liều lượng 1 – 2kg/m3, 2 – 4 lần/tháng.

Dùng Erythromyxin: Trộn vào thức ăn từ 3-7 ngày, dùng 2-5 g/100kg cá/ngày. Có thể phun xuống ao nồng độ 1-2 ppm, sau đó sang ngày thứ 2 trộn vào thức ăn 4g/100kg cá, từ ngày thứ 3-5 giảm còn một nửa. Thuốc KN-04-12 cho ăn 4 g/1 kg cá/ngày và cho ăn 3-6 ngày liên tục. Vitamin C phòng bệnh xuất huyết: liều dùng thường xuyên cho cá 20-30 mg/1kg cá/1 ngày, cho ăn liên tục 7-10 ngày.

* Hội chứng lở loét:

– Dấu hiệu bệnh lý: Cá cỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, nổi lờ đờ, xuất hiện nhiều vết loét trên cơ thể làm cho cá chết, khi chết thường chìm xuống đáy.

– Tác nhân gây bệnh: Do một loạt các yếu tố vô sinh và hữu sinh nhưng nguyên nhân cơ bản chắn chắn là do tác nhân truyền nhiễm sinh học như: Vi khuẩn, virus, nấm và ký sinh trùng…

– Phòng và trị bệnh: Hiện nay vẫn chưa tìm được phương pháp chữa trị hữu hiệu đối với những bệnh do virus gây ra và do chưa rõ nguyên nhân chính gây nên dịch bệnh nên việc điều trị gặp nhiều khó khăn. Do đó không cần trị, duy trì chất lượng nước tốt sẽ giúp cá đề kháng với bệnh tật.

* Bệnh trùng bánh xe:

– Dấu hiệu bệnh lý: Màu sắc cá nhợt nhạt, thân cá có nhiều nhớt màu trắng đục, đuôi, vây bị xơ mòn, bơi lội không định hướng, thân cọ vào cây cỏ như bị ngứa.

– Tác nhân gây bệnh: Do trùng bánh xe Trichodina ký sinh ở da và mang cá, bệnh thường phát triển vào ngày trời không nắng, âm u hoặc mưa kéo dài, đặc biệt khi nước có độ đục và hàm lượng hữu cơ lơ lửng cao.

– Phòng trị bệnh:

Tắm cá: Dùng muối ăn NaCl với nồng độ 2-3% tắm cho cá 5-10 phút hoặc dùng CuSO4 (phèn xanh) với nồng độ 3-5 ppm (3-5g/m3 nước) tắm cho cá 5-10 phút.

Phun thuốc trực tiếp xuống ao: Dùng CuSO4 với nồng độ 0,5 – 0,7ppm (0,5 – 0,7 g/m3 nước).

* Bệnh nấm da (Nấm Thủy Mi):

– Dấu hiệu bệnh lý: Khi nấm mới kí sinh thì khó phát hiện, khi nấm đã phát triển nhiều trên cơ thể cá sẽ có những chùm màu trắng nhu cục bông gòn. Khi nấm đã phát triển sẽ khó điều trị. Cá bị ngứa, hay cạ cơ thể vào vật cứng trong ao nuôi, da cá trở nên sần hơn. Cá bị bệnh nặng sẽ lở loét, phần cơ thể tại khu vực này sẽ rời ra khỏi cơ thể. Bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa, nhiệt độ nước thấp 18 – 25 độ C.

– Tác nhân gây bệnh: Bệnh do nấm Saprolegnia và Achlya gây nên. Bệnh thường xuất hiện khi cá đã bị nhiễm một bệnh nào đó như bệnh đốm đỏ, bệnh do ký trùng, cá trị trầy xước, hoặc do thiếu dinh dưỡng, nhiệt độ nước giảm làm cá suy giảm sức đề kháng. Khi đó nấm sẽ bám vào cơ thể cá để gây bệnh.

– Phòng và trị bệnh:

Nuôi dưỡng cá tốt, cho ăn đầy đủ dinh dưỡng, giữ môi trường ao sạch sẽ, tránh cá bị xây xát khi đánh bắt.

Giữ ấm cho cá khi trời rét bằng cách đào ao sâu, trồng cây chắn gió trên bờ ao.

Chọn mua cá giống khỏe mạnh, tại các trại uy tín.

Bổ sung khoáng, vitamin, thuốc bổ vào khẩu phần ăn.

Dùng Iodine Complex For Fish phun trực tiếp xuống ao nuôi với liều 2-3ml/m3 nước. Mỗi tuần phun thuốc 2 lần.

Dùng muối ăn (NaCl) nồng độ 2-3% tắm cho cá 3-10 phút

Dùng sulfate đồng CuSO4 nồng độ 0,5g/m3 nước để tắm cá trong 30 phút.

* Bệnh nấm mang:

– Dấu hiệu bệnh lý:

Bệnh xâm nhập trực tiếp vào mang hoặc bào tử nấm xâm nhập vào ruột, sau đó vào mạch máu rồi đến mang để gây bệnh.

Mang cá bị loét, đứt rời các sợi mang, làm cá ngạt thở. Bệnh phát triển nhanh, chỉ trong vài ngày có thể lan toàn bộ số cá nuôi nếu ao dơ bẩn, tỷ lệ chết lên tới 50%.

– Tác nhân gây bệnh: Do nấm Branchiomyces gây ra. Ao hồ nước đọng có nhiều chất hữu cơ, tảo phát triển dày đặc, thả nuôi mật độ cao sẽ tạo điều kiện cho nấm phát triển và gây bệnh.

– Phòng và trị bệnh:

Sau khi thu hoạch phải tháo cạn nước, dùng vôi diệt trùng ao (7 – 10kg/100m2 ao), phơi đáy ao khoảng 1 tuần trước khi cho nước mới vào.

Bổ sung các loại thuốc, khoáng, vitamin để tăng cường sức đề kháng cho cá.

Cứ khoảng 2 tuần nên dùng một đợt thuốc kháng sinh như KANA-Ampicol, Coli-Neoflum, Kancoquine-ADE, Celi-Fac, Bioflum, F-2.Bio-flox, Enro-Colistin, Enrop-Ampotrim trộn vào thức ăn, cho ăn liên tục trong 3 ngày

Cần bón thêm vôi nung Ca(OH)2 để nâng pH của nước ao lên 8,5-9,0, tương đương liều lượng 2kg/100m2.

Cho cá ăn vừa phải để tránh làm dơ nước ao.

Hòa tại Sulfat đồng (CuSO4) vào nước rồi tạt đều khắp ao với liều 0,5 – 0,7ppm, tương đương 0,5-0,7 g/m3 nước. Với phương pháp điều trị trên, thường sau một tuần cá sẽ khỏi bệnh.

* Bệnh rận cá:

– Dấu hiệu bệnh lý: Rận cá thường ký sinh ở vây, mang cá rô phi làm cho da cá bị viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng khác xâm nhập, vì vậy nó thường cùng lưu hành với bệnh đốm trắng, bệnh đốm đỏ, lở loét nên dẫn đến làm cá chết hàng loạt. Cá bị Caligus ký sinh có cảm giác ngứa ngáy, vận động mạnh trên mặt nước, bơi lội cuồng dại, cường độ bắt mồi giảm.

– Tác nhân gây bệnh: Rận cá Caligus sp.

– Phòng trị bệnh:

Dùng KMnO4 nồng độ 3-5ppm (3-5g/m3) hoặc chlorin nồng độ 1ppm (1g/m3) phun xuống ao.

Dùng formalin nồng độ 20-25 ppm (20-25ml/m3) phun xuống ao.

Thu hoạch cá rô phi Thời điểm thu hoạch

– Thời gian nuôi: 5-6 tháng

– Kích cỡ đạt: 0,5 – 0,6 kg/con.

+ Để hạn chế mùi bùn, trước khi thu hoạch 1-2 tuần nên tích cực thay nước sạch để nâng cao chất lượng thịt cá, hạn chế được hôi mùi bùn.

+ Trước khi thu hoạch cá cần chuẩn bị đủ dụng cụ và vật liệu (tấm bạt, rổ, xô nhựa, thùng cách nhiệt, nước sạch, đá sạch, giai, lưới…), tùy theo sản lượng cá thu hoạch mà bố trí nhân lực cho hợp lý.

Phương pháp thu hoạch:

+ Phương pháp thu toàn bộ: Tháo 30% lượng nước trong ao, dùng lưới vét có chiều dài tối thiểu bằng chiều dài 1 cạnh bờ ao để kéo thu cá. Chỉ kéo thu cá trên từng phần diện tích ao, khi thu được phần lớn số lượng cá trong ao thì mới vét toàn bộ diện tích ao, sau đó bơm cạn, thu nốt số còn lại.

+ Phương pháp thu tỉa: Tháo cạn nước 40-50cm, kéo lưới thu tỉa cá lớn. Những con còn nhỏ thì giữ lại nuôi tiếu trong thời gian ngắn nữa sẽ cho kích cỡ thu hoạch vì lúc này mật độ cá trong ao thưa nên cá lớn rất nhanh.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Chình Thương Phẩm

Cá chình là loài di cư ngược dòng sông, mỗi năm vào mùa xuân, có nhiều chình con kết thành đàn lớn bơi vào cửa sông. Cá chình cái bơi ngược dòng sông, lên nguồn các sông hồ để vỗ béo cho đến tuổi trưởng thành và thành thục. Đến mùa thu cá chình hợp thành đàn lớn bơi lại cửa sông kết đàn cùng cá chình đực bơi ra đại dương để sinh sản. Hiện nay việc cho sinh sản nhân tạo cá chình chưa thành công, con giống đưa vào nuôi nhân tạo chủ yếu được vớt từ tự nhiên.

Cá chình là loài ăn thịt. Trong tự nhiên, cá chình con ăn các loài giáp xác phù du, khi lớn lên ăn tôm, cua nhỏ, các loại côn trùng thuỷ sinh, ốc, giun, cá con, những mãnh vụn động vật thối rữa. Nuôi ở trại, cho ăn thức ăn chế biến nhân tạo. Nhiệt độ thích nghi là: 20-28 ºC, nếu nhiệt độ xuống 8-10ºC chình ngừng ăn, bơi sát xuống đáy bùn hoặc sỏi sạn để tìm chỗ qua đông, khi nhiệt độ lên 30ºC cá cũng ngừng ăn. Thịt cá chình rất béo, ngon, dinh dưỡng phong phú, có giá trị xuất khẩu lớn.

Chuẩn Bị Ao Nuôi Cá Chình

Diện tích ao nuôi tốt nhất 500 – 1.000 m2, ao nuôi phải được xây dựng bằng cơ giới. Mức nước phải đảm bảo độ sâu trung bình 1,8 – 2,2 m. Bờ ao phải cao hơn mặt nước cao nhất trong ao ít nhất là 60 cm. Bờ ao rộng và kiên cố không rò rỉ nước. Chất đất xây dựng ao nuôi là thịt pha cát, đất thịt pha sét là tốt nhất. Nên xây dựng từ 02 ao nuôi trở lên để dễ dàng phân cỡ cá và thay nước trong suốt quá trình nuôi. Xung quanh hệ thống ao phải được rào chắn bằng tole xi măng hoặc lưới rào kiên cố để không cho cá thất thoát.

Đối với ao cũ cần được tát cạn, sên vét hết bùn đáy, bón vôi CaO từ 70 – 100 kg/1.000 m2 tùy theo độ pH đất và phơi khô vừa ráo. Đối với ao mới đào, lượng vôi có thể bón nhiều hơn và được ngâm tháo phèn nhiều lần sau đó giữ lại mức nước 20 cm rồi dùng dây thuốc cá xay từ 2 – 3 kg/1.000 m2 để diệt hết cá tạp.

Nguồn nước được cấp vào ao qua túi lọc mịn, phải đạt chất lượng tốt, nên cấp qua ao lắng được xử lý ban đầu bằng thuốc tím 2 – 4 kg/1.000 m3 để diệt khuẩn, nấm bệnh, sau đó mới được cấp vào ao nuôi.

Cần gây tảo để ổn định chất lượng nước và đảm bảo hàm lượng ôxy trong ao. Tảo phát triển làm giảm độ trong, ngăn cản ánh sáng xuyên xuống đáy ao tạo môi trường phù hợp với tập tính sống ưa tối của cá chình. Tạt nước phân DAP hoặc NPK với liều lượng 1 – 2 kg/1.000m3, nên tạt liên tục 2 – 3 ngày để tảo phát triển cho nước màu xanh.

Nguồn Nước

Nguồn nước phải đảm bảo đầy đủ, chủ động khi cấp và thay nước, tốt nhất nên chọn địa điểm nuôi có nguồn nước tự lưu thông. Nước nuôi cá chình giống cần các tiêu chuẩn sau:

Tiêu chuẩn chất lượng nước để nuôi cá chình

Tùy theo mật độ thả nuôi, kích cỡ cá giống thả mà bố trí hệ thống quạt nước cũng như hệ thống sục khí cho hợp lý để cung cấp nguồn oxy hòa tan trong ao. Dưới ao bố trí các giá thể để cá trú ẩn, các giá thể bao gồm các ống nhựa kích thước 0,8 m x 114 mm đường kính hoặc căng tấm lưới dây gân nhẵn, kích cỡ mắt lưới 8 x 8 cm. Nên bố trí tấm lưới chiếm ¼ diện tích bề mặt ao dọc theo chiều dài hoặc chiều rộng cách bờ của ao 0,5 m và độ cao so với bề mặt đáy ao 25 cm, tấm lưới phải được cố định thẳng bằng cây cọc.

Chọn Giống Và Mật Độ Thả Nuôi Cá Chình Chọn Giống

Do nguồn giống cá chình chủ yếu là bắt từ tự nhiên, một số nơi dùng câu, lưới điện để bắt giống nên người nuôi còn gặp nhiều khó khăn trong việc chọn giống. Vì vậy, bà con nên chọn lựa mua giống ở những cơ sở ương giống từ giai đoạn cá con, cá còn nhỏ đã được trại ương qua nhiều giai đoạn giúp chất l­ượng cá giống đảm bảo yêu cầu khi đó cá giống đư­ợc luyện ép, ­ương nuôi phù hợp với điều kiện nuôi nhân tạo. Biểu hiện rõ nhất là cá dạn với người ít sợ sệt, bơi lội tự nhiên trên mặt n­ước để kiếm mồi. Nhanh chóng bắt mồi khi cho ăn.

Cần chọn mua giống từ các cơ sở cung cấp giống uy tín và chất lượng. Cá giống khỏe mạnh, đều cỡ, da bóng, nhiều nhớt, không xây xát đặc biệt là không mắc lưỡi câu và xung điện. Nếu cá do đánh bắt bằng điện thì biểu hiện dị hình hoặc cong thân…, cá do câu thì hay bơi lùi. Cá bị câu thì l­ưỡi còn mắc ở trong dạ dày nên cá không ăn được gầy mòn rồi chết.

Giống cá chình có 04 loài chủ yếu nhưng có 02 loài có giá trị kinh tế cao đó là cá chình hoa hay còn gọi cá chình bông và cá chình mun (cá chình nhốt), cá chình bông được thị trường trong nước ưa chuộng và giá cao hơn. Kích cỡ cá thả nuôi thả tốt nhất từ 50-100g/con.

Thả Giống Và Mật Độ Thả

Hiện nay chủ yếu giống được vớt từ tự nhiên nên rất khó chọn được đàn giống có số lượng nhiều và bảo đảm chất lượng, tuy nhiên cần chọn đàn giống có đặc điểm sau:

Kích thước đồng đều, không có giống tạp

Độ béo cao, trên thân trơn liền, mặt lưng màu xanh lam, mặt bụng màu trắng.

Không có bệnh, không bị xây sát, hoạt động và bắt mồi mạnh.

Chất lượng của cá chình giống nuôi trong năm là tốt nhất.

Khi chuyển cá về không nên thả vội vàng vào ao mà nên thả cá vào bể bạt có mức nước 0,8 – 1,0 m, bể bạt đặt ở vị trí thoáng mát kết hợp với sục khí và tạo dòng chảy để cá thích nghi với nguồn nước. Sau đó sát trùng cho cá trước khi thả, có thể dùng 1 trong 3 loại hóa chất sau đây để tắm cho cá:

Thuốc tím (KMnO4) 1 – 3g/m3

Sulphat đồng(CuSO4) 0,3 -0,5g/m3

Formol 1 – 3 ml/m3

Hoặc ngâm cá trong dung dịch nước muối 15 – 30‰ trong 15 – 30 phút. Thời gian ngâm tắm từ 10 – 30 phút hoặc đến khi thấy cá có dấu hiệu khó chịu mới thôi. Tắm cá là công đoạn rất quan trọng để loại bỏ vi khuẩn, nấm bệnh cũng như ký sinh trùng cho cá giống đồng thời qua đó sẽ phân loại được cá khỏe mạnh để thả nuôi trước và cá yếu, cá nghi ngờ mắc lưỡi câu sẽ được giữ lại để chăm sóc đặc biệt hoặc thả cách ly riêng.

Đối với hình thức nuôi bán thâm canh (sử dụng thức ăn cá tươi không có hệ thống tạo oxy) nên thả cỡ cá từ 50 – 100g/con: mật độ trung bình thả từ 5 con/10m2 – 1con/m2

Đối với hình thức nuôi Thâm canh (sử dụng thức ăn công nghiệp và có hệ thống tạo oxy) nên thả cá từ 25 – 100 g/con: mật độ thả dao động từ 4 – 10 con/m2.

Chăm Sóc Và Quản Lý

Cho ăn theo nguyên tắc 4 định: định chất, định lượng, định thời gian, định địa điểm.

– Định chất: Thức ăn có đủ độ đạm cần thiết. Nếu dùng thức ăn cá tạp phải còn tươi nên sử dụng cá rô phi, hoặc cá biển là tốt nhất. Cá được sơ chế sạch, sau đó cắt vừa kích cỡ miệng cá từng giai đoạn mới đem cho ăn. Thức ăn công nghiệp nuôi cá chình dạng bột có hàm lượng đạm cao từ 45 – 50% chất lượng rất tốt nhưng giá khá đắt.

– Định lượng: Thức ăn cá tươi mỗi ngày cho ăn 5 – 15% tổng khối lượng cá trong ao; thức ăn công nghiệp cho ăn 3 – 4% tổng khối lượng cá trong ao. Yêu cầu thức ăn thả xuống sau 20 – 30 phút cá phải ăn hết.

Tỷ lệ cho ăn với kích cỡ khác nhau của chình

– Định thời gian: Cho ăn 1 ngày 1 lần vào lúc 8 – 9 giờ sáng lúc nắng yếu hoặc 4 – 5 giờ chiều. Thức ăn công nghiệp trước khi cho cá ăn cần 5 – 10 phút trộn đều với nước theo tỷ lệ 1kg thức ăn +1,5 lít nước sau đó được đánh trộn đều bằng máy và cho cá ăn ngay trên khay sàng ăn nổi.

– Định địa điểm: Phải cố định vị trí đặt sàng cho ăn. Sàng cho cá ăn là khung hình vuông hoặc hình tròn có kích thước 1m2 căng lưới nilon, mắt lưới to nhỏ phụ thuộc vào kích cỡ cá. Nên đặt sàng ăn ở chỗ tối, kín gió. Đối với thức ăn cá tạp nên đặt sàng ăn chìm sát đáy ao; còn sàng ăn sử dụng thức ăn công nghiệp nổi trên bề mặt nước.

Phân Cỡ Cá

Định kỳ phân cỡ cá hoặc sang ao mới sau 6 – 8 tháng/lần, phân loại cá lớn, cá nhỏ nuôi riêng để cá đồng đều và lớn nhanh. Trước khi phân cỡ để cá nhịn đói từ 1 – 2 ngày. Thao tác phân cỡ cá phải được thực hiện nhanh chóng và thời điểm thích hợp.

Quản Lý Chất Lượng Nước

Ao nuôi cá chình công nghiệp mật độ dày cần lắp đặt hệ thống oxy tầng đáy và máy quạt nước giúp cho ôxy phân phối đều trong các tầng nước. Trước khi cho cá ăn, nên mở sục khí đề phòng thiếu ôxy cục bộ do cá tập trung ăn tại một chỗ.

Nếu nước trong ao nuôi là nước tĩnh, mật độ thưa định kỳ cần thay 10% lượng nước trong ao/1 tuần từ tháng thứ 3 – 4 trở đi và 20 – 30% ở tháng thứ 5 – 6. Nên thay nước vào lúc trời mát. Khi có mưa to hoặc trời nắng nóng cần giảm ½ lượng thức ăn. Định kỳ 1 tháng/lần diệt khuẩn định kỳ bằng thuốc tím 1,5 kg/1.000 m3 và 10 – 15 ngày/lần tạt nước vôi sống 15 – 20 kg/1.000 m3 để khống chế mật độ tảo và ổn định chất lượng nước.

Do cá chình thời gian nuôi dài, lượng thức ăn hòa tan dư thừa làm cho nguồn nước mau dơ là điều không thể tránh khỏi, vì vậy trong quá trình nuôi bà con cũng cần định kỳ sử dụng men vi sinh để phân hủy và làm sạch nền đáy ao nuôi góp phần phòng bệnh cho cá nuôi và quản lý được chất lượng nguồn nước.

Phòng Và Trị Bệnh Cho Cá Chình

Cá chình cũng như các loại động vật thuỷ sản khi đã bị bệnh rồi rất khó chữa trị và vừa tốn kém lại không hiệu quả, vì vậy biện pháp tốt nhất là phòng bệnh

Chọn con giống khoẻ mạnh không có dấu hiệu bệnh lý.

Giữ mực nước ao, bể ổn đinh, thay nước trong sạch thường xuyên, ổn định các yếu tố môi trường trong ngưỡng cho phép cá chình phát triển.

Cho ăn thức ăn đầy đủ và bảo đảm chất lượng

Một Số Bệnh Thường Gặp Ở Cá Chình I.Bệnh nấm thủy mi

Cá Chình là loài nuôi mới, ít có bệnh. Cá thường bỏ ăn là do yếu tố môi trường và khâu tuyển chọn giống kém chất lượng dẫn đến cá không ăn và hao hụt nhiều. Cá Chình cũng thường bắt gặp một số bệnh như ở cá nước ngọt khác, nhưng chưa thấy tác hại đến cá. Chủ yếu và nguy hiểm nhất là bệnh nấm trên cá Chình, là nguyên nhân gây thiệt hại lớn nhất, có khi đến 70 – 75%. Do hai giống nấm là Saprolegnia và Achlya. Tác hại: Cá Chình là động vật da trơn, ngoài hô hấp bằng mang, cá Chình còn hô hấp bằng da là chủ yếu. Hiện tượng bị nấm sẽ cản trở việc hô hấp bằng da của cá dẫn tới cá yếu vàchết.

Phòng trị bệnh: Dùng Kali dichromate K2Cr2O7 liều lượng 20 – 25g/m3 tạt trực tiếp xuống ao nuôi để diệt nấm bệnh.

II.Bệnh thối vây

Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Flexibacte columnaris. Vi khuẩn này phát triển mạnh ở nhiệt độ thấp, dưới 15 độ C. Triệu chứng là trên cá xuất hiện nhiều đốm trắng ở đầu và vây. Tia vây bị hoại tử và tưa rách, cá cũng sẽ bị nhiễm độc do độc tố của vi khuẩn tiết ra và gây tổn thương cho hệ thống tuần hoàn. Cá bị bệnh nặng sẽ chết trong vòng 2 ngày.

Điều trị bằng thuốc Doxery 10 – 15gr/kg thức ăn, hoặc Vime – Glucan 5 – 10 gr/kg thức ăn kết hợp trộn với thức ăn Glusome 2gr/1 kg thức ăn để tăng cường hệ thống miễn dịch và sức đề kháng của cá.

III.Rận cá sống trên da, vây, xoang miệng và mang

Bệnh xuất hiện quanh năm, nhưng thường tập trung vào mùa mưa. Giai đoạn cá còn nhỏ, chỉ cần 1-2 con rận ký sinh là có thể làm cá chết. Cá chình có tập quán sống chui rúc nên rất dễ bị rận cá tấn công.

Phòng và trị rận bằng cách vệ sinh môi trường trước khi nuôi cá bằng vôi bột. Khi thấy có rận bám vào cá, cần xử lý cá bằng thuốc tím 2 kg/1.000 m3, cần kiểm tra độ pH của nước, tạo môi trường kiềm tính bằng cách bơm nước giếng ngầm hoặc thay đổi tăng hay giảm độ mặn sẽ hạn chế rận cá.

Theo kinh nghiệm của người dân nuôi cá chình, với kích cỡ cá giống thả nuôi ban đầu từ 50 – 200 g/con, mật độ nuôi 1 – 2 con/m2 trong điều kiện chăm sóc tốt, sau 18 – 24 tháng tuổi cá có thể đạt kích cỡ 0,8 – 2,5 kg/con. Khi còn nhỏ tốc độ sinh trưởng của cá trong đàn t¬ương đương nhau và khá chậm, nhưng khi đạt chiều dài hơn 40 cm và từ tháng thứ 7 – 8 trở đi tốc độ cá lớn nhanh hơn thông thường, cá đực lớn chậm hơn so với cá cái.

Quảng Bình: Mô Hình Nuôi Cá Dìa Thương Phẩm Cho Năng Suất Cao

Mô hình nuôi cá Dìa thương phẩm đã được triển khai tại phường Phú Hải, TP Đồng Hới và xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch trên diện tích 4.000 m2.

Năm 2023, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình đã triển khai mô hình nuôi cá Dìa thương phẩm tại vùng nuôi trồng thủy sản mặn lợ của phường Phú Hải, TP. Đồng Hới và xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch trên diện tích 4.000 m2.

Trong những năm qua, phong trào nuôi trồng thủy sản tỉnh Quảng Bình có những bước phát triển đáng kể. Bên cạnh những kết quả đạt được cũng gặp không ít khó khăn do giá tôm nguyên liệu thấp, dịch bệnh thường xảy ra tại các vùng nuôi tôm trong ao đất.

Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng diễn biến phức tạp, môi trường ở các vùng nuôi tôm lâu năm bị ô nhiễm, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, đã làm cho người nuôi tôm luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro.

Trước tình hình đó, việc lựa chọn, bổ sung các đối tượng nuôi mặn, lợ có giá trị kinh tế đưa vào nuôi luân canh, xen canh tại các vùng nuôi tôm thường xảy ra dịch bệnh nhằm thay đổi môi trường, đồng thời đa dạng hóa đối tượng nuôi là rất cần thiết.

Cá Dìa là đối tượng có giá trị kinh tế cao, thuộc loài cá rộng muối, thịt thơm ngon chứa nhiều chất béo, bổ dưỡng, ít xương, được thị trường ưa chuộng. Được sự đồng ý của Sở Nông nghiệp và PTNT.

Năm 2023, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình đã triển khai mô hình nuôi cá Dìa thương phẩm tại vùng nuôi trồng thủy sản mặn lợ của phường Phú Hải, TP Đồng Hới và xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch trên diện tích 4.000 m2.

Ông Võ Đại Chung, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình cho hay, kết quả sau 6 tháng triển khai cho thấy, cá có tỉ lệ sống trên 85%, trọng lượng thu hoạch trung bình 160 g/con, sản lượng ước đạt 800 kg.

Với giá bán trên thị trường như hiện nay là 200.000 đồng/kg sẽ cho doanh thu 160 triệu đồng, sau khi trừ đi các chi phí trực tiếp hộ gia đình lãi trên 82 triệu đồng. Bên cạnh đó, hiệu quả đạt được của mô hình tạo tiền đề bổ sung đối tượng nuôi mới, luân canh, xen canh với các đối tượng tôm, cua nhằm hạn chế suy thoái môi trường, dịch bệnh, tiến tới nuôi bền vững; khai thác tiềm năng ao hồ nuôi thủy sản mặn, lợ, hồ nuôi tôm kém hiệu quả hoặc bị bỏ hoang sang nuôi cá Dìa; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nuôi.

Theo Vietq.vn

Quy Trình Nuôi Cá Lóc Đầu Nhím Thương Phẩm Cho Năng Suất Cao

Tại ĐBSCL, cá lóc đầu nhím được nuôi phổ biến, đem lại thu nhập tốt cho người nuôi.

Người dân nên mua cá giống ở các cơ sở uy tín – Ảnh: Lê Hoàng Vũ

Trước tốc độ phát triển nhanh và mạnh của cá lóc đầu nhím, chúng tôi chọn giới thiệu quy trình nuôi cá lóc đầu nhím thương phẩm hiệu quả.

Chuẩn bị ao nuôi

Diện tích ao nuôi tùy thuộc vào điều kiện của cơ sở, tuy nhiên thích hợp nhất là khoảng 1.000 – 5.000 m2 vì nếu diện tích ao quá lớn thì rất khó quản lý. Độ sâu ao nuôi lớn hơn 2 m, một số hộ nuôi có thể có thể tận dụng ao nuôi cá tra để nuôi nên độ sâu có thể lên đến 3,5 – 5 m. Trong ao, nên chuẩn bị 1 cái vèo có diện tích bằng khoảng 1/10 – 1/5 diện tích ao nuôi và đặt cách bờ khoảng 3 – 5 m, làm 1 cái cầu bằng gỗ để đi từ bờ ra vèo.

Sau khi đã chuẩn bị ao sạch sẽ thì cấp nước vào, bơm nước vào đầy ao qua lưới lọc để tránh cá tạp và địch hại vào ao ăn cá. Gây màu nước bằng hỗn hợp cám gạo (1 kg) + bột đậu nành (1 kg) hòa với nước ngâm qua đêm tạt đều cho 1.000 m². Ngày tạt 2 lần, tối ngâm thì sáng tạt, sáng ngâm thì chiều (16 – 17 h) tạt. Hoặc tạt trực tiếp xuống ao 2 kg thức ăn cá công nghiệp dạng bột cho 1.000 m2 ao.

Thả giống

Chọn con giống đồng đều về kích cỡ, khỏe mạnh, màu sắc sáng đẹp, thân hình cân đối, không mang các dấu hiệu nhiễm bệnh. Tốt hơn hết người dân nên chọn mua tại các cơ sở sản xuất uy tín.

Tùy thuộc vào kỹ thuật của người nuôi mà tiến hành nuôi với mật độ thưa hay dày. Thường cá lóc giống được bắt về có kích thước lồng 4 – 6 cm và thả nuôi với mật độ 50 – 100 con/m2.

Giống được thả vào vèo, do giai đoạn này cá còn nhỏ mình nuôi trong vèo dễ cho việc chăm sóc và quản lý hơn. Sau khi nuôi khoảng 2 tháng, cá đạt trong lượng khoảng 100 – 180 g/con thì chúng ta tiến hành lọc lại cá và cho ra khỏi vèo, còn lại những con nhỏ quá mình có thể chuyển sang 1 ao nhỏ khác, làm thế này thì lúc thu hoạch cá của chúng ta sẽ đồng đều hơn.

Cho ăn

Hiện nay cá lóc nuôi cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp có hiện tượng phổ biến là cá bị gù dao động 4 – 40% (gồm cá bị gãy xương, gãy lưng), loại cá này giá bán thấp hơn so với cá bình thường khoảng 10.000 đồng/kg. Mặc dù chưa có nghiên cứu nào nói về nguyên nhân cá bị gù. Tuy nhiên, đa số người dân nuôi cá lóc thì cho rằng là do dùng thức ăn công nghiệp. Do đó khi chọn thức ăn công nghiệp cho cá chúng ta phải cẩn trọng, phải chọn loại thức ăn có người nuôi đã từng dùng và tỉ lệ gù không quá 5% thì có thể chấp nhận được.

Một kinh nghiệm quan trọng để phòng bệnh gù là trong giai đoạn đầu từ khi thả giống đến giai đoạn 2 tháng chúng ta cho cá ăn hỗn hợp thức ăn công nghiệp và cá biển. Cách cho ăn là xay cá biển nhỏ trộn với thức ăn viên với tỷ lệ 4kg cá biển trộn với 1 kg thức ăn viên. Sau đó rải từ từ trên sàng ăn, ở đây chúng ta cho ăn theo nhu cầu của cá, khi nào thấy cá bắt mồi hơi yếu thì ta ngưng cho ăn là vừa, tránh để thức ăn dư gây ô nhiễm nguồn nước.

Sau 2 tháng nuôi nếu nguồn cá biển giá còn rẻ và có đủ nhân công để cho ăn thì chúng ta vẫn nên nuôi kết hợp 2 loại thức ăn này. Nếu không đáp ứng được điều kiện trên thì chúng ta chuyển cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp.

Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá, mức độ sử dụng thức ăn để phát hiện bệnh và điều trị kịp thời. Để duy trì chất lượng nước nuôi, khoảng 7 ngày chúng ta thay nước khoảng 20 – 30% hoặc cấp nước thêm cho ao. Định kỳ (10 ngày/lần) dùng vôi bột hòa với nước tạt đều khắp ao để diệt mầm bệnh, liều lượng từ 2 – 3 kg vôi bột/100 m2.

Thu hoạch

Sau khoảng 5 – 6 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng bình quân khoảng 400 – 600g/con chúng ta có thể thu hoạch, tỉ lệ sống trung bình đạt khảng 80%, đối với thức ăn công nghiệp hệ số chuyển đổi thức ăn FCR khoảng 1,2 – 1,4 kg thức ăn/kg cá cá tùy thuộc vào loại thức ăn và kỹ thuật của người nuôi.

Kỹ Thuật Nuôi Trùn Quế Năng Suất Cao

Nuôi trùn quế khá đơn giản không mất nhiều công sức cũng như kỹ thuật như bạn vẫn nghĩ. Bạn có thể tận dụng nguồn thức ăn sẵn có và diện tích nuôi triệt để. Không những thế, chi phí lại thấp.

1. Chuẩn bị môi trường nuôi trùn quế

Cần có dụng cụ để xới, thu hoạch và chăm sóc trùn khoa học. Dụng cụ không được làm tổn thương đến trùn

Tấm che phủ để chắn nắng nên làm bằng đay hoặc chiếu cói là tốt nhất.

Dùng thùng tưới nước có vòi hoa sen. Nếu không có thì đổ ra rổ hoặc rá.

Gáo múc nước. Tùy vào điều kiện hay vật dụng sẵn có mà bạn dùng gáo nhựa, gáo dừa, hay mũ bảo hiểm lao động đều được

Chất nền là yếu tố quyết định xem việc nuôi trùn của bạn có thành công hay không? Chất nền tốt nhất nên là phân bò cũ, đã phơi ải. Chất này phải sạch và giàu dinh dưỡng. Chất nền này cũng là thức ăn cho trùn quế. Nếu chưa chuẩn bị được thì bạn có thể dùng rơm rạ mục và phân tươi lót bên dưới.

Tùy theo điều kiện mà bạn chọn phương pháp ủ chất nền khác nhau.

Đầu tiên chọn 1 lớp nền cứng rồi rải 1 lớp phân dày chừng 10 đến 15cm. Lại rải tiếp chất độn dày 10cm đã trộn vôi bột. Cứ rải tiếp như thế đến khi được một đống chất độn cao từ 1 đến 1.5m. Ở giữa bạn cắm một đoạn tre để thông khí.

Khi đánh đống xong với tỷ lệ 7 phần phân trâu bò và 3 phần chất độn chặt nhỏ thì phủ lên đống phân 1 lớp đẻ che mưa che nắng. Chất phủ có thể là lá chuối hay cỏ tranh đều được.

Cứ 5 đến 7 ngày thì bạn tiến hành tưới nước và đảo đống chất nền 1 lần để đảm bảo đống này luôn ẩm và thông khí. Sau 3 đến 4 tuần ủ thì có thể mang ra sử dụng.

Phân gia súc và chất độn đem đánh đống như phương pháp ủ nóng nhưng không dùng vôi bổ. Sau khi đánh đống xong thì phủ thêm 1 lớp rơm ra mỏng và tưới nước cho ẩm. Lấy bùn rồi chát kín đống ủ. Sau 3 tháng là mang ra sử dụng.

Cũng làm tương tự như phương pháp ủ nóng. Nhưng sau 4 đến 6 ngày thì nhiệt độ đống độn lên 70 độ C. Lúc này bạn tưới nước ẩm rồi lấy bùn chát kín. Sau 2 tháng là có thể sử dụng được.

Khi rải chất nền bạn chỉ được rải một lớp dày chừng 10 đến 20 cm là được. Tưới ẩm rồi xới đều rồi mới san bằng. Chất nền cần thả trước khi nuôi trùn từ 2 đến 3 ngày. Nếu dùng giống là trùn sinh khối thì không cần dùng chất nền cũng được.

Nếu dùng rơm rạ mục thì bạn tiến hành rải rơm rạ mục rồi rải tiếp 1 lớp phân tươi lên.

2. Kỹ thuật nuôi trùn quế hiệu quả

Bạn nên dùng trùn quế sinh khối để làm giống vì chúng có lẫn cả trùn bố mẹ, trùn con, trứng kén và cơ chất mà trùn đang sống quen. Việt này sẽ giúp trùn không bị “sốc” với môi trường lạ và sinh sản nhanh.

Khi chuẩn bị chuồng xong xuôi thì mang trùn đi thả vào 1 đường thẳng ở giữa luống đó hoặc rải trùn thành từng đám giữa mặt luống. Bạn nên thả trùn vào buổi sáng. Chỉ sau 5 đến 7 phút thả thì trùn chui hết xuống dưới.

Quan sát trên mặt luống và loại bỏ những con ngọ nguậy tại chỗ, không có khả năng di chuyển xuống lớp đất sâu. Những con trùn này là những con bị thương trong quá trình thu gom. Sau khi loại trùn xong thì tiến hành dùng doa tưới nước ẩm nhẹ nhàng lên luống.

Hằng ngày phải tưới ẩm lên mặt luống. Nếu thấy trời quá nóng (từ 34 độ trở lên ) thì tưới nước nhiều lần để giảm nhiệt độ.

Mật độ thả giống cũng quyết định năng xuất lứa trùn của bạn. Mật độ lý tưởng là từ 9 đến 12kg sinh khối/m2. Nghĩa là tương đương với 3 đến 4kg giun tinh/m2.

Trùn quê sống trong môi trường tối. Cứ gặp ánh sáng là chúng chui hết xuống mặt luống. Do đó việc che phủ mặt luống là biện pháp tạo bóng tối để trùn lên mặt luống ăn thức ăn và sinh sản cả ngày lẫn đêm.

Ngoài ra tấm che phủ còn giữ được độ ẩm cho luống nuôi. Sau khi thả trùn xong thì bạn lấy bao tải, chiếc cói hay tấm bìa đậy lên để tạo bóng tối cho trùn quen. Sau đó mới lấy ô doa tưới nước lên luống để chất đệm được ướt đều.

Cứ theo quy tắc mùa khô nóng tưới nhiều mùa mưa rét tưới ít mà làm.

Độ ẩm thích hợp là khi bạn lấy 1 nắm thức ăn hoặc 1 chút chất nền và bóp nhẹ, thấy nước ứa ra kẽ ngón tay là được. Nếu nước nhỏ giọt hay chảy dòng thì là thừa ẩm. hay bóp chặt mà không có nước là bị khô quá. Như vậy bạn có thể điều chỉnh được lượng nước cho phù hợp.

Sau khi thả trùn được 1 đến 2 ngày thì bạn tiến hành cho trùn ăn. Độ dày thức ăn là 5cm trên mặt luống. Tiếp tục cho ăn nếu ề mặt luống xống và hết thức ăn cũ.

Bạn không nên cho trùn ăn khi thức ăn cũ còn quá nhiều. Vì thức ăn tồn đọng khiến trùn chỉ tập trung ở dưới mà không ngoi lên mặt luống để ăn. Như vậy trùn sẽ giảm khả năng sinh sản và giảm cả chất lượng.

Thức ăn của trùn là phân tươi như trâu, bò, lợn. Thức an là rác hữu cơ đã hoai mục được ủ với 1 tỏng 3 phương pháp trên cũng được. Bạn chỉ cần trộn lẫn rồi ngâm trong bể tưới nước sạch chừng 1 đến 2 ngày thành dạng lỏng sền sệt thì mới cho trùn ăn là tốt nhất.

Khi cho ăn bạn chỉ cần giở tấm phủ và múc thức ăn cho trùn ăn là được. Thức ăn cho trùn ăn nền rải thành vệt dài hoặc từng đám mỏng cách đều nhau. Để tránh trường hợp nhiệt độ tăng cao hoặc thức ăn gây sốc và trùn có khoảng trống ngoi lên thở. Đọi chúng ăn xong thì che tấm phủ lại và tưới ẩm là được.

Lưu ý: Lượng thức ăn bón trên mặt luống cần cụ thể và thay đổi theo mùa.

Vào mùa hè thì cứ 2 – 3 ngày cho trùn ăn 1 lần với lượng thức ăn trên bề mặt luống dày từ 2 – 3cm.

Vào mùa đông thì lượng thức ăn cho ăn nhiều hơn, dày 5cm bón phủ đầy luống trùn. Thời gian cho ăn kéo dài hơn từ 3 – 4 ngày cho ăn 1 lần.

3. Phòng bệnh cho giun trùn quế

– Hàng ngày khi theo dõi nơi nuôi trùn nếu thấy kiến thì tiêu diệt ngay.

– Che chắn cẩn thận để tránh gà, cóc, ếch, chuột ăn giun.

– Các chất độc hại như xà phòng, thuốc trừ sâu, nước rửa chen, tro bếp,…. chỉ cần tiếp xúc là trùn chết ngay.

– Nếu điều kiện sống bất lợi như độ ẩm, độ pH, nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, thùng đậy nắp hoặc phủ nilon quá kín hay bị anh nắng, nước mưa chiếu trực tiếp vào thì sẽ làm trùn chết và bò ra khỏi thùng.

Mặc dù rất ít bị bệnh nhưng chúng rất hay bị những bệnh sau vào mùa hè.

Bệnh no hơi: Nếu ăn phải thức ăn quá nhiều đạm như phân bò sữa, phân lợn thì trùn sẽ nổi lên mặt luống và trương dài ra. Sau đó thì tím bầm và chết. Cách tốt nhất là hớt hết phân đã cho ăn và tưới nước lên luống.

Bệnh trúng khí độc: Nếu chất nền bị thối rửa tròn thời gian dài làm thiếu oxi và khí CO2 nhiều sẽ làm trùn ngoi hết lên bề mặt. Với trường hợp này bạn chỉ cần dùng cuốc xới lên toàn bộ bề mặt và tưới nước vào là được.

Có nhiều phương pháp để thu hoạch trùn nhưng nhử mồi được xem là phương pháp hữu hiệu nhất. Sau khi cho trùn ăn được 3 ngày thì bạn lấy chừng 20cm bề mặt luống rồi trải tấm nilon ra chỗ có nắng nhiều nhất rồi đổ hỗn hợp lên tấm nilon. Tiếp đó gạt bỏ phân bên trên và trùn sợ hãi sẽ lần lượt chui xuống dưới.

Lớp phân này bạn không được bỏ làm phân mà mang ở lại chuồng để tiếp tục nuôi như là chất nền. Chúng sẽ nhân luống rất mau vì trong đây có rất nhiều kén trùn. Lấy hết phần phan còn lại ta được phân trùn.

Nếu chuồng cũ đầy phân mà chưa có chuồng mới vì trời mưa thì bạn không thể tách trùn và phơi phân. Chúng ta có thể làm như sau: Xúc tòn bộ sinh khối qua một bên chuồng rồi dùng phên tre chắn lại.

Rồi dùng cọ trẻ để giữ phen. Bỏ thức ăn mới vào chuồng trống rồi trùn thấy mùi thức ăn sẽ tự chui qua phần bên này. Đến khi điều kiện thích hợp thì bắt trùn đem phơi nắng sẽ phơi phân trùn dễ dàng hơn nhiều.

Cập nhật 25/06/2023

Cập nhật thông tin chi tiết về Bật Mí Kỹ Thuật Nuôi Cá Chình Thương Phẩm Mau Lớn Cho Năng Suất Cao trên website Psc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!